Vẫn biết quy luật sinh-tử của tạo hóa khó ai cưỡng được, nhưng tôi vẫn hụt hẫng khi biết tin Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó thủ tướng Chính phủ) đã vĩnh biệt chúng ta!
Cho đến hôm nay, tôi vẫn lưu giữ một kỷ niệm sâu sắc đối với ông là vào đầu xuân năm 1971, vừa ăn Tết được một tuần, Phó tổng biên tập Báo Nhân Dân Thép Mới mời tôi lên phòng làm việc truyền đạt ý kiến của Tổng biên tập Hoàng Tùng: Cử Hồng Vinh ngày mai bám theo xe của Ban Thanh niên xung phong 67 vào Trường Sơn làm nhiệm vụ phóng viên quân sự. Anh Thép Mới chỉ nói ngắn gọn: Vào Ban 67, họ sẽ giúp cậu liên hệ với Đại tá Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Đoàn 559 và Đại tá Đặng Tính, Chính ủy để các anh ấy giúp đỡ thâm nhập cuộc sống lao động và chiến đấu của bộ đội, thanh niên xung phong trên các tuyến mặt trận để viết bài cổ vũ khí thế “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
Trên đường từ Hà Nội vào Trường Sơn, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì được nhập đoàn quân ra trận, nhưng lo vì cả hai người lãnh đạo Đoàn 559, tôi chưa hề biết mặt. “Bảo bối” trong túi tôi chỉ là bức thư của anh Thép Mới gửi Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên và Chính ủy Đặng Tính. Vì vậy, đến trạm gác thứ ba để vào trung tâm “đại bản doanh” của Đoàn 559 đóng ở cây số 10, đường 33, tôi bị chặn lại vì “không có quyết định của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử vào Trường Sơn công tác”. Chờ đến quá nửa đêm, Đại tá Đặng Tính, quần xắn trên đầu gối, lội suối ra gặp tôi ở phòng chờ và thông báo: “Bọn mình vừa báo cáo qua đường dây việc Hồng Vinh vào đây, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào hoan nghênh và nói: “Các thủ tục sẽ bổ sung sau. Trước mắt, cần tạo điều kiện cho Hồng Vinh sớm tiếp cận thực tế lao động và chiến đấu trên các tuyến đường Trường Sơn”. Thực hiện Chỉ thị đó, 19 giờ tối mai, cậu chuẩn bị đi xe cùng Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên xuống một số binh trạm kiểm tra công tác chiến đấu”. Tôi thở phào nhẹ nhõm và xếp gọn tư trang để dễ dàng “nhập cuộc”. Đúng 19 giờ, một chiếc xe U-oát do Liên Xô chế tạo dừng trước cửa, một người cao to, vạm vỡ, đầu đội mũ sắt, mở cửa xe bước ra, giọng miền Trung: “Chào Hồng Vinh đã vô đây chia lửa với bọn mình”. Vừa nói, ông vừa cầm cái mũ sắt đã chuẩn bị sẵn, chụp lên đầu tôi và dặn: “Ở đây bom đạn giội xuống bất thình lình, cậu cần luyện đức bình tĩnh, làm theo nghiêm túc các chỉ lệnh của mình nhé!”. Chiếc xe lao đi trong đêm lắc lư, nghiêng trái, nghiêng phải, bên cạnh là vực sâu hun hút, chốc chốc trên trời lại lóe lên chùm pháo sáng từ máy bay địch. Đến hai giờ sáng thì xe chạy trên đoạn suối, dài hàng ki-lô-mét, nước ngập lưng ống chân, bên trên có nhiều cây xòe tán như các vòng ngụy trang nhân tạo. Ông quay sang hỏi tôi: "Cảm xúc ban đầu của nhà báo thế nào?". Tôi thưa: “Có rất nhiều cảm xúc ạ, nhưng em yên tâm vì được đi cùng Tư lệnh”. 6 giờ sáng, xe dừng lại trung tâm chỉ huy Binh trạm 31, các đồng chí lãnh đạo đã tề tựu đông đủ. Ông giới thiệu tôi và căn dặn đơn vị phải tạo điều kiện cho phóng viên có nhiều tư liệu viết bài đăng trên báo Đảng. Sau khi chỉ thị các công việc rất cụ thể cho binh trạm, ông nói: “Hồng Vinh ở đây thâm nhập thực tế nhé, ba hôm sau mình sẽ quay lại đón đến binh trạm khác”. Đúng hẹn, ông lại đón tôi sang Binh trạm 37; ông yêu cầu lãnh đạo đơn vị phòng không dẫn tôi ra các ụ pháo và xem nơi ăn, chốn ở tạm thời. Không khí thân tình và niềm lạc quan của bộ đội và thanh niên xung phong ở hai binh trạm đã giúp tôi quên cả mệt nhọc và nỗi lo bom đạn; ba bài viết của tôi nhanh chóng được ra đời trong căn hầm chìm sâu dưới lòng đất, bên ngọn đèn dầu lạc, muội đèn đen cả cằm, má và hai lỗ mũi... Ông căn dặn các binh trạm tìm cách nhanh nhất gửi bài viết của tôi ra Tòa soạn tại 71 Hàng Trống, Hà Nội. Tôi đã vỡ òa hạnh phúc sau 13 ngày đêm, bài phóng sự “Theo Bác mở đường” đã được đọc toàn văn qua sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Những bài viết sau này qua nhiều binh trạm và các đơn vị chiến đấu trên đường Trường Sơn, tôi không thể nào quên sự quan tâm, động viên của ông dành cho tôi từ những ngày đầu...
Năm 1974, biết tin ông là một trong hai Đại tá được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng, tôi mang hoa đến chúc mừng, ông cười đôn hậu: “Đó là chiến công chung của Đoàn 559, trong đó có sự góp sức động viên khí thế chiến đấu, mở đường của nhiều nhà báo, nhà văn”. Tôi vui lây vì hiểu rằng, phần thưởng cao quý ấy (sau này, ông được nhận thêm Huân chương Sao Vàng) dành cho vị tư lệnh có trí tuệ và bản lĩnh, đã chỉ đạo thành công một chủ trương lớn của Bộ Chính trị lúc bấy giờ là: Tăng cường đưa các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào Trường Sơn để mở đường bằng cơ giới là chính, nhằm đáp ứng yêu cầu vận chuyển đạn dược, lương thực, thuốc men với khối lượng ngày càng lớn để kịp phục vụ các chiến dịch, nhất là lúc ta mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử...