Social Icons

Pages

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC CỦA LUẬT AN NINH MẠNG


Gần đấy, Phạm Thanh Nghiên viết bài: “Phỏng vấn về Luật An ninh mạng: Vì sao người dân miền Nam bị bắt nhiều hơn”? Nội dung bài viết của Phạm Thanh Nghiên chỉ là sự kích động chia rẽ nhân dân miền Nam với nhân dân miền Bắc; xuyên tạc, bịa đặt cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và Công an nhân dân Việt Nam nói riêng bưng bít thông tin như một cách tự vệ; kích động tâm lý hằn thù dân tộc và cuối cùng là phủ nhận Luật An ninh mạng. Theo đó, mỗi người dân cần hiểu giá trị đích thực của Luật An ninh mạng.
Thứ nhất, Luật An ninh mạng là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ an ninh quốc gia; xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật, như: Sử dụng không gian mạng, tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông tin kích động lôi kéo tụ tập đông người, gây rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, gây mất ổn định về an ninh trật tự. Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc. Phát tán thông tin gây hại cho tổ chức, cá nhân. Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Sử dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người. Đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội. Tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử.
Thứ hai, nhằm bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được quy định trong Luật An ninh mạng là hệ thống thông tin khi bị sự cố, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt, tấn công hoặc phá hoại sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh mạng. Với tiêu chí như trên, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được xác định trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt đối với quốc gia như: Quân sự, an ninh, ngoại giao, cơ yếu; trong lĩnh vực đặc thù như lưu trữ, xử lý thông tin thuộc bí mật nhà nước; phục vụ hoạt động của các công trình quan trọng liên quan tới an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia hoặc những hệ thống thông tin quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường, hóa chất, y tế, văn hóa, báo chí.
Thứ ba, nhằm phòng, chống tấn công mạng. Tấn công mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để phá hoại, gây gián đoạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử. Các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ tương xứng với tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Theo đó, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước các hành vi tấn công mạng.
Với giá trị đó, bất kỳ người nào vi phạm Luật An ninh mạng đều bị xử lý theo pháp luật, không phân biệt người miền Nam hay miền Bắc. Luận điệu của Phạm Thanh Nghiên chỉ nhằm thực hiện mưu đồ đen tối là kích động, chia rẽ đại đoàn kết dân tộc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, vì vậy cần đấu tranh, bác bỏ./.

GIÁ TRỊ CỦA SỰ THẬT


Một trong những sự kiện gây chú ý của dư luận trong thời gian qua đó là việc Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long có những phát biểu mang tính chủ quan, phiến diện, cho rằng việc quân tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia là “can thiệp quân sự”, là “xâm lược Campuchia”. Điều này không chỉ xuyên tạc lịch sử, xúc phạm Việt Nam mà còn phủ nhận tính chính danh của chính quyền dân chủ Campuchia Heng Samrin vào thập niên 1980, chia rẽ đoàn kết Asian, kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi (Tre Việt đã có bài phân tích).Vì sao một chính trị gia lão luyện như họ Lý lại có thể “nhỡ mồm” như vậy? Liệu đó có phải là sự thiếu hiểu biết lịch sử? Hay là sự cố tình xuyên tạc? Hay là vì một nước cờ kinh tế, chính trị nào đó? Chẳng hạn, nếu Trung Quốc cùng Thái Lan xây xong kênh đào Kra cắt ngang phía Nam Thái Lan thì đường hàng hải từ Ấn Độ Dương sang Biển Đông và xa hơn nữa sẽ rút ngắn 1000km. Tàu biển sẽ không ghé qua Singaopre và “Sing” sẽ không còn “Xinh” như ngày nay nữa. Tất nhiên là ông Long rất không muốn người Thái làm kênh Kra và vì thế, nhân sự qua đời của cựu thủ tướng Thái Lan – tướng Prem Tinsulanonda, Lý Hiển Long muốn bày tỏ  đồng quan điểm với vị Thủ tướng nước này về sự kiện Campuchia năm 1979 và sự chia buồn “vô cùng sâu sắc” tới người Thái, bất chấp đó là sự xúc phạm Việt Nam?
Cho dù động cơ của Lý Hiển Long là vì mục đích gì đi chăng nữa thì có một sự thật là:Những phát biểu của Lý Hiển Long đã bị lên án mạnh mẽ ở nhiều cấp độ khác nhau. Từ chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia, tới các chính khách và người dân các nước trong khu vực và trên thế giới; từ các hành động ngoại giao tới làn sóng phản đối mạnh mẽ trên các trang mạng xã hội, v.v. Đã có hàng nghìn bài viết, video, hình ảnh chân thực về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và việc quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của chế độ Khmer đỏ. Điều đó đã tiếp tục khẳng định và nâng cao nhận thức cho mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ của hai nước Việt Nam, Campuchia để họ hiểu được tính chính nghĩa của cuộc chiến này; thấy rõ sự hi sinh lớn lao, cao cả, thiêng liêng mà cả thế giới phải trân trọng, ghi nhận của một thế hệ quân tình nguyện Việt Nam vì nền độc lập, hòa bình không những của dân tộc mình mà còn của đất nước láng giềng. Đó thực sự là một bài học lịch sử có giá trị lớn lao. Qua sự kiện này cũng cho thấy sự đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia tiếp tục được củng cố và thắt chặt. Người dân hai nước hiểu nhau hơn, trân trọng nhau hơn và vì thế, những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cho rằng Việt Nam là “kẻ thù”, “xâm lược” Campuchia cũng sẽ không thể tồn tại. Các nước trong khu vực và thế giới cũng sẽ có được cái nhìn chân thực hơn, rõ nét hơn về một cuộc chiến chính nghĩa đã bị bóp méo bởi sự toan tính chính trị của các nước lớn. Đồng thời, qua đây người dân Singapore cũng có nhìn nhận khách quan trước những phản ứng quốc tế về quan điểm của người đứng đầu Chính phủ nước mình.Từ phát biểu sai trái, không đúng tầm của ông Lý Hiển Long, tiếng nói chính nghĩa của sự thật lịch sử đã lên tiếng. Đó là giá trị không thể phủ nhận./.

THỰC CHẤT MỤC ĐÍCH CỦA QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI VỀ QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG Ở VIỆT NAM


Với việc đưa ra quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội, một số người đã đánh tráo khái niệm “dân sự quản lý quân sự” với “dân sự hóa” Quân đội; họ đánh đồng việc dân sự quản lý quân sự với biến việc của quân sự thành việc của dân sự, làm cho người khác hiểu sai về bản chất vấn đề.
Mặc dù chế định “dân sự quản lý quân sự” ở các nước tư sản không thực hiện được (như đã đề cập ở trên), song những người đưa ra quan điểm “dân sự hóa” Quân đội không bao giờ đề cập tới sự thật này. Họ ra sức ca ngợi và cổ súy cho pháp lý và đời sống luật pháp tư sản theo hướng cái gì cũng “tốt đẹp”, “thiên đường”; làm cho người ta tưởng việc “dân sự hóa” quân đội của nhà nước tư sản là tốt đẹp, dễ làm, nhà nước xã hội chủ nghĩa cứ theo thế mà làm. Đây là thủ đoạn chính trị tinh vi, kết hợp giữa “diễn biến hóa bình” với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam. Thực chất mục đích của quan điểm cổ vũ “dân sự hóa” Quân đội theo hướng pháp lý “dân sự quản lý quân sự” của nhà nước tư sản là nhằm tác động, thay đổi đường lối, cơ chế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên tắc hoạt động quốc phòng là tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, mục đích chính trị cuối cùng của quan điểm cổ súy “dân sự hóa” Quân đội, không phải cái gì khác hơn là nhằm loại bỏ quyền lãnh đạo Quân đội và hoạt động quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước hiến định. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch - một thủ đoạn, âm mưu tinh vi, xảo quyệt, từ đánh tráo khái niệm, đến tiêm nhiễm, thẩm thấu tư tưởng, chuyển hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và hoạt động quốc phòng, cuối cùng là kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ mưu đồ của họ; cảnh giác, đề phòng, ngăn ngừa, đấu tranh bác bỏ tư tưởng, quan điểm sai trái này.

VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC THÔNG TIN CỦA NGƯỜI DÂN


Nhà nước Việt Nam chú trọng, bởi đây là một trong những quyền cơ bản của con người.
Thế nhưng thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình bóp méo, xuyên tạc sự thật về việc thực hiện các quyền dân sự, chính trị nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng ở Việt Nam. Trên một số trang mạng thiếu thiện chí có kẻ cho rằng Việt Nam "bóp nghẹt", "bưng bít" thông tin; “cản trở các quyền tự do biểu đạt, chính kiến và ngôn luận"... của người dân. Thậm chí trên trang mạng của RFA còn hồ đồ phán rằng: “bưng bít thông tin là nguyên tắc của Chính phủ Việt Nam...”.
Cần khẳng định ngay rằng giọng điệu trên là bịa đặt vô căn cứ, trắng trợn xuyên tạc việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị nói chung và quyền được thông tin ở Việt Nam nói riêng. Hành động ấy lộ rõ ý đồ, động cơ chính trị không trong sáng đối với Việt Nam. Sự thật bảo đảm quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái ấy.
Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân được thông tin; khai thác, sử dụng internet để tiếp cận thông tin nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Theo tinh thần ấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về bảo đảm quyền được thông tin của người dân. Những thành tựu ấy trước hết được thể hiện ở việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật nhằm bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin của người dân, trong đó có những luật, nghị định như: Luật Báo chí 2016; Luật Tiếp cận thông tin 2016; Luật An ninh mạng 2018; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”... Tất cả những văn bản luật ấy đều tuân thủ nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đúng Hiến pháp năm 2013, vừa bảo đảm quyền tiếp nhận thông tin, vừa bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong bảo vệ bí mật Nhà nước, chống việc lộ, lọt bí mật thông tin.
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP xác định chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân ở các vùng khó khăn có thể sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng vào việc tìm kiếm và tiếp cận thông tin. Trước sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng điện tử, vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là một nhiệm vụ quan trọng, tất yếu. Luật An ninh mạng xác định nguyên tắc pháp quyền của Nhà nước ta, đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền được tiếp cận thông tin. Đối với các trang mạng đang hoạt động tại Việt Nam, Luật An ninh mạng cũng có các quy định rất rõ ràng, cụ thể. Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng theo Luật An ninh mạng dựa trên thông lệ quốc tế không cản trở quyền được thông tin của người dân và cũng không cản trở hoạt động của các doanh nghiệp mạng đang triển khai dịch vụ ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ trong Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người theo cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc công bố tại hội thảo tổ chức ngày 3-12-2018. Theo đó, Việt Nam đang là một trong những nước có tốc độ phát triển internet nhanh nhất thế giới, với trên 50 triệu người dùng internet...
Chính phủ Việt Nam đã triển khai hệ thống tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ, xây dựng và công bố công khai hằng năm Chỉ số cải cách hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước và Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước. Trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng “Chính phủ điện tử”; cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm cung cấp dịch vụ công trực tuyến, để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân; để người dân thông qua mạng internet có thể bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, gửi ý kiến tới Đảng, chính quyền nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận phản ánh thông tin, kiến nghị của người dân. Thực tế cho thấy số người dùng internet, MXH để bày tỏ chính kiến, tổ chức các diễn đàn thảo luận, phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gửi các góp ý, kiến nghị đến các cơ quan chức năng ở Việt Nam ngày càng tăng. Nhiều thông tin từ MXH đã được các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền kiểm tra, xác minh và xử lý kịp thời.
Nhằm bảo đảm quyền được tiếp nhận thông tin của người dân, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, trong đó có việc phát triển báo chí, truyền thông. Để tăng cường tính công khai, minh bạch thông tin, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế về cơ chế phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo các quy định của pháp luật và hoạt động báo chí hiện hành... Được Đảng, Nhà nước quan tâm, báo chí cách mạng nước ta đã có sự phát triển nhanh chóng và toàn diện, ngày càng thể hiện rõ vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là diễn đàn xã hội rộng rãi để phát huy dân chủ; là người bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân... Không chỉ tăng nhanh về số lượng các cơ quan báo chí, các chương trình phát thanh, truyền hình và công nghệ làm báo, chất lượng các xuất bản phẩm ngày càng đổi mới cả về nội dung, hình thức thể hiện. Đội ngũ những người làm báo có sự phát triển, trưởng thành trên nhiều mặt. Đặc biệt, định hướng phát triển báo chí theo mô hình cơ quan truyền thông đa phương tiện đã tạo ra khả năng to lớn cho việc truyền tải thông tin của các cơ quan báo chí, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin và tiếp nhận thông tin của nhân dân.
Sự phát triển nhanh của các phương tiện thông tin đại chúng và internet cho thấy quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin ở Việt Nam đã có bước cải thiện, phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, luật pháp Việt Nam quy định hạn chế quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin và tiếp cận thông tin trong một số trường hợp, phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng và đạo đức của xã hội. Những trường hợp mà một vài trang mạng dẫn ra để nói rằng Việt Nam vi phạm quyền tự do thông tin, thực chất họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam mọi hành vi cản trở, đe dọa đến quyền được thông tin, quyền tự do tiếp cận thông tin; lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của tổ chức, cá nhân; gây tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác; xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức và sức khỏe cộng đồng... tùy vào tính chất, mức độ đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, chúng ta cũng khách quan thừa nhận rằng, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Đáng lưu ý là việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ở một số bộ, ngành, địa phương chưa tốt. Còn có biểu hiện cán bộ được phân công phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí sợ trách nhiệm, đùn đẩy cho người không có thẩm quyền hoặc viện dẫn nhiều lý do để từ chối cung cấp thông tin. Một số cán bộ được phân công cung cấp thông tin còn thiếu kỹ năng phát ngôn, chưa tìm hiểu sâu kỹ vấn đề, vụ việc, nên chưa đáp ứng được yêu cầu của báo chí và dư luận. Sự phối hợp giữa người phát ngôn với bộ phận chức năng chuyên sâu chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng thông tin cung cấp chưa kịp thời và thiếu rõ ràng. Việc điều tra, xử lý những đối tượng vi phạm quyền được thông tin của người dân, tung tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi xấu, gây ảnh hưởng tới danh dự, uy tín của tập thể, cá nhân... chưa kiên quyết, kịp thời; chế tài xử phạt chưa đủ mạnh...
Mặc dù còn những hạn chế, nhưng những thành quả của Việt Nam trong bảo đảm quyền được thông tin của người dân là rất cơ bản và không thể phủ nhận. Những tiến bộ đó đã được dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nỗ lực phát huy những thành quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại, hạn chế. Mặt khác, Việt Nam kiên quyết đấu tranh, phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc, bóp méo sự thật về bảo đảm quyền con người nói chung và quyền được thông tin, tiếp cận thông tin của người dân Việt Nam nói riêng.

CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ ĐÁNH GIÁ CAO BẢN CHẤT CHẾ ĐỘ XÃ HỘI VÀ VỊ THẾ CHÍNH TRỊ CỦA VIỆT NAM


Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội vẫn có những cái nhìn phiến diện, những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt về thành tựu của cách mạng, nhất là trong công tác đối ngoại và về vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhưng việc chúng ta được bầu với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193), trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) một lần nữa khẳng định khả năng, tầm vóc và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, sự kiện quan trọng ấy còn là minh chứng hùng hồn phản bác mọi giọng điệu đang cố tình xuyên tạc đường lối, phủ nhận thành tựu đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Kết quả bầu cử tại Khóa họp thứ 73 Đại hội đồng LHQ công bố tối 7-6 cho thấy, cộng đồng quốc tế đánh giá cao bản chất chế độ xã hội và vị thế chính trị của Việt Nam. Mặt khác, đây cũng là trách nhiệm nặng nề đối với Việt Nam. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực lớn hơn nữa trong thực hiện đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại và tiếp tục có những đóng góp cụ thể cho HĐBA tại LHQ. Nhiệm vụ quan trọng nhất là góp phần xây dựng chương trình nghị sự, tham gia định hình chính sách của LHQ.
Cách đây hơn 4 thập kỷ, ngày 20-9-1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của LHQ. Kể từ đó, Việt Nam luôn là thành viên tích cực của tổ chức chính trị đa phương lớn nhất hành tinh này. Những đóng góp của Việt Nam là toàn diện, đặc biệt là trên 3 trụ cột: Hòa bình và an ninh quốc tế; phát triển kinh tế-xã hội; quyền con người. Những kết quả hoạt động trên 3 lĩnh vực này không chỉ thể hiện ở những đóng góp của Việt Nam tại LHQ mà còn ở việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị xã hội tại Việt Nam.
Trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, xuất phát điểm từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp lúa nước lạc hậu, đất nước lại bị chiến tranh tàn phá suốt mấy chục năm, đến nay Việt Nam đã trở thành một nước có mức thu nhập trung bình của thế giới. Quy mô nền kinh tế Việt Nam ngày càng được mở rộng nhờ duy trì tốc độ tăng trưởng khá. GDP năm 2018 đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng, gấp hai lần quy mô GDP năm 2011. GDP bình quân đầu người năm 2018 ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587USD, tăng 198USD so với năm 2017... Mức sống người dân không ngừng được nâng cao, không phải quốc gia nào lâm vào hoàn cảnh như Việt Nam cũng có được kết quả như vậy.
Trong dịp tham dự Hội nghị Thượng đỉnh APEC cuối năm 2017 tại Đà Nẵng, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã phải thốt lên rằng “Việt Nam là điều kỳ diệu của thế giới”. Cũng trong dịp dự Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên lần hai tại Hà Nội (ngày 26-2-2019) Tổng thống Mỹ Donald Trump lại đưa ra thêm một nhận xét: “Việt Nam đang là một trong những nơi phát triển hiếm có trên Trái Đất”.
Là thành viên có trách nhiệm của LHQ, Việt Nam đã đi đầu trong thực hiện chiến lược của LHQ, trong đó có mục tiêu thiên niên kỷ (MDG). Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành MDG về xóa nghèo. Như vậy, Việt Nam đã về đích mục tiêu này trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015).
Xóa đói, giảm nghèo luôn là một nhiệm vụ chính trị lớn được Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Trong năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1%-1,5%/năm. Riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3%-4% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020. Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho rằng: “Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Tỷ lệ nghèo trong các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm mạnh...”.
Về đường lối đối ngoại, an ninh, quốc phòng, quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam là nhất quán và có nguyên tắc. Đó là: (1) Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết; (2) Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm: Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển; (3) Tôn trọng Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.
Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) xác định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và nội dung, giải pháp để thực hiện chiến lược trong tình hình mới. Trong chiến lược nói trên, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đối tác và đối tượng của cách mạng Việt Nam: “Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”
Quan điểm của Việt Nam về vấn đề chủ quyền và quyền chủ quyền biển, đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là giữ vững nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, vừa kiên trì, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, vừa giữ vững môi trường hòa bình và hợp tác để phát triển.
Việt Nam sẽ đón nhận nhiệm vụ Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ trong bối cảnh châu Á vừa là tâm điểm phát triển kinh tế, vừa là điểm nóng cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn. Đây là một vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm. Về mặt địa chính trị, Việt Nam và Biển Đông có một vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là tuyến đường bộ đi từ các quốc gia phương Bắc xuống các quốc gia Đông Nam Á-một thị trường lớn, giàu tài nguyên, đang phát triển mạnh mẽ; đó cũng là tuyến đường biển thuận lợi nhất cho các quốc gia đi từ Đại Tây Dương qua Thái Bình Dương tới Ấn Độ Dương. Việt Nam, với vị trí địa chính trị và địa chiến lược cả trên đất liền, trên biển đảo... luôn là một địa bàn quan tâm của nhiều nước lớn.
Với vị trí Ủy viên không thường trực HĐBA, Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn không chỉ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của LHQ mà còn trong xử lý những vấn đề chính trị ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có vấn đề chủ quyền biển, đảo và đường hàng không, hàng hải quốc tế qua Biển Đông. Vị trí này còn giúp Việt Nam thực hiện vai trò Chủ tịch Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 2020.
Liên quan đến những vấn đề địa chính trị của Việt Nam và Biển Đông với vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, TS Alexey Muraviev, Phó giáo sư Viện Nghiên cứu chiến lược an ninh quốc gia Đại học Curtin (Úc), một nhà nghiên cứu về khu vực, cho rằng: “Việc được bầu làm Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ sẽ tiếp tục nâng cao tiếng nói, sức nặng của Việt Nam xét về địa chính trị, như một nhân tố quan trọng và có tầm ảnh hưởng tại khu vực đang phát triển như Đông Nam Á cũng như xa hơn”.
Về việc Việt Nam tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình của LHQ, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cho biết: “Đội công binh Việt Nam gồm 290 cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ đã cơ bản hoàn tất công tác chuẩn bị về tổ chức biên chế, trang thiết bị, trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn và sẵn sàng tham gia hoạt động Gìn giữ hòa bình LHQ từ năm 2020”.
Nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đối ngoại là một chủ đề của Hội nghị Trung ương 10, khóa XII. Tại phiên bế mạc (ngày 18-5), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường trên thế giới, trong khu vực, cần quan tâm đặc biệt, coi bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên… có chính sách, biện pháp phù hợp, bảo đảm thực hiện thắng lợi nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.” Một trong những mục tiêu của chiến lược an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới là tiếp tục nâng cao vị thế chính trị của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, thực hiện tốt nhất vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ.

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ LIÊM KHIẾT


Tuy không trực tiếp đề cập đến việc xây dựng “Chính phủ liêm chính” như hiện nay nhưng trong quá trình xây dựng nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến khá nhiều về việc xây dựng Chính phủ liêm khiết, phục vụ nhân dân. Điều đó được nổi bật và quy tụ ở quan niệm: Chính trị là đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc to đến nhỏ. Đó thực sự là một nền chính trị trong sạch, lấy dân làm gốc, chính trị thân dân, chính tâm, chính trị nhân nghĩa. Ngày 31-10-1946, tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tuy trong nghị quyết không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết”.
Để xây dựng Chính phủ liêm khiết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết kế, đưa ra một “mô hình” về Chính phủ địa phương – các Ủy ban dân làng, phủ: Phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó. Ủy ban dân làng sẽ làm những việc có lợi cho dân, không phạm vào công lý, vào tự do của dân chúng; thận trọng hết sức trong việc chi dùng công quỹ, không dám tùy ý tiêu tiền vào những việc xa phí như ăn uống. Những nhân viên Ủy ban sẽ không lợi dụng danh nghĩa Ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình. Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ hành động đúng tinh thần tự do dân chủ.
Một chính phủ liêm khiết phải là một chính phủ mà tất thảy mọi cán bộ, công chức phải liêm khiết, chính trực. Vì vậy, cán bộ, nhân viên nhà nước – những người trực tiếp thực thi các chủ trương, chính sách của nhà nước và tiếp xúc trực tiếp với nhân dân phải có trách nhiệm, có cái tâm trong sáng, không bòn rút của dân, không vụ lợi, vị kỷ và phải cải tạo lòng mình. Vì “Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”. Do đó, phải kiên quyết chống bằng được “giặc nội xâm”- giặc ở trong lòng mỗi con người. Đó là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ bằng nhiều hình thức phong phú gắn với những điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ… dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Những hành vi đó trái với đức liêm, những cán bộ đó là bất liêm nên cần phải đấu tranh như đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Bởi cuộc sống là một trường tranh đấu, cái đúng, cái sai, cái tốt, cái đẹp không dễ gì đạt được ngay một lúc, ngay trong trường hợp lý tưởng nhất, đã đạt được thì cũng không phải đương nhiên, tự nhiên tồn tại mãi mãi cho nên phải thường xuyên tự rèn luyện, tự tu dưỡng và thực hành chữ liêm.
Nhìn nhận về kết quả hoạt động của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thừa nhận rằng “Tuy nhiều người trong ban hành chính làm việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa quét sạch”. Đây là lần đầu tiên trong chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng hai chữ “nhũng lạm” với nghĩa lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Người lạm dụng quyền lực thì trước hết phải là những người có quyền lực và đó chỉ có thể là những người làm việc trong các công sở, cán bộ các cơ quan, đoàn thể. Và quyền lực ở đây được đặt ngang hàng trong mối tương quan giữa cán bộ, công chức với nhân dân. Một tư duy mang sắc thái Hồ Chí Minh, đó là nhân dân, dù muốn tham nhũng cũng không thể, mà chỉ có thể tham ô. Còn cán bộ, người có quyền mới có điều kiện tham nhũng. Cán bộ có chức vụ càng cao càng có điều kiện tham nhũng lớn. Trong tác phẩm Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư” (lấy của công làm việc tư).