Social Icons

Pages

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2019

HAM HỌC ĐỂ TRƯỞNG THÀNH VÀ CỐNG HIẾN


Trong lịch sử quân sự thế giới, ít có quân đội nào có sự tiến bộ, trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc như Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ra đời trong hoàn cảnh nước nhà đang bị xâm lược, nhưng được sự lãnh đạo, dìu dắt, giáo dục sâu sát của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ một đội quân chỉ có 34 chiến sĩ với vũ khí thô sơ, trải qua hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, Quân đội ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành và trở thành một quân đội “bách chiến bách thắng”.
Sự phát triển của Quân đội ta, đúng như lời tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ ngày đầu mới thành lập 22-12-1944: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang”.
Một trong những yếu tố góp phần làm nên truyền thống vẻ vang của Quân đội ta là tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ của các thế hệ Bộ đội Cụ Hồ. Từ lời thề “Hết sức học tập để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng” của 34 đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân năm xưa, đến lời thề “Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ… xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh” của quân nhân hôm nay, đã ăn sâu vào máu thịt cán bộ, chiến sĩ. Hơn bảy thập niên qua, dù chỉ là chiến sĩ binh nhì, binh nhất, hay các vị tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, ai nấy đều coi việc học tập, mở rộng tầm nhìn, nâng cao hiểu biết là một trong những việc làm thiết thực để vừa giúp mình mau chóng tiến bộ, trưởng thành, vừa góp phần cống hiến tài năng, trí tuệ phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
Trong thời chiến, dù cuộc sống, chiến đấu còn muôn vàn gian khổ, nhưng từ trên chiến hào, trận địa, hình ảnh những người lính mặc áo trấn thủ hay những người lính giải phóng quân đội mũ tai bèo tranh thủ lúc ngưng tiếng súng để học bổ túc văn hóa, đọc sách báo, đã làm đậm thêm “nét son” về truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Trong thời bình, hầu hết chiến sĩ đều có trình độ THPT trở lên, song khi vào quân ngũ, ai nấy đều tranh thủ thời gian để vừa tham gia huấn luyện quân sự, vừa không quên học tập, trau dồi chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp để không ngừng làm giàu tri thức cho bản thân. Đặc biệt, trong 5 năm qua (2014-2019), thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, toàn quân đã có gần 300 đề tài, hơn 960 sáng kiến được đưa vào triển khai, ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn. Đó là “hương thơm” được gom góp, chắt chiu từ thành quả học tập, lao động và tinh thần vượt khó, hiếu học, ý chí nỗ lực sáng tạo của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta.
Đã từ lâu, Quân đội ta được ví như một “trường học lớn”. Ở trường học đó, mỗi quân nhân không chỉ được rèn luyện trong môi trường hoạt động quân sự nghiêm túc, chặt chẽ, kỷ luật, mà còn được “tắm mình” vào không gian văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú. Từ môi trường quân ngũ, nhiều văn nghệ sĩ, trí thức đã thành danh; nhiều người đã rèn luyện, phấn đấu và trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và các ban, bộ, ngành Trung ương. Bởi khi công tác trong môi trường quân đội, việc học và tự học vừa là yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, vừa là nhu cầu tự thân của mỗi quân nhân để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Đối với mỗi quân nhân, việc ham học hỏi, cầu tiến bộ còn thể hiện tình cảm tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Cha thân yêu của LLVT nhân dân Việt Nam, Người đã dạy cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta: “Quân nhân phải biết võ, phải biết văn, võ là như tay phải, văn là như tay trái của quân nhân. Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Muốn biết thì phải thi đua học. Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”, vì Người đã khẳng định: “Một quân đội văn hay võ giỏi là một quân đội vô địch”.


NHẬN DIỆN MỘT SỐ THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC LỊCH SỬ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY


Để chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ đã tiến hành nhiều chiến lược phản cách mạng, nhưng mọi sự nỗ lực của chúng đã không cưỡng nổi quy luật tất yếu của lịch sử. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Để làm được điều đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã áp dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong đó chúng đặc biệt coi trọng thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Những thủ đoạn trên của các thế lực thù địch là cực kỳ nguy hiểm vì nó tạo ra sự nghi ngờ, gây hoang mang trong quần chúng, làm cho quần chúng mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bằng nhiều thủ đoạn, qua các phương tiện thông tin, nhất là thông qua mạng intơnét, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tung ra các luận điệu xuyên tạc thâm độc để tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước tathể hiện ở một số vấn đề như: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch phủ nhận giá trị của học thuyết Mác - Lênin, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí MinhHọ cho rằng học thuyết Mác - Lênin đã “lỗi thời”, chủ nghĩa xã hội hiện thực không phải là con đường phát triển của lịch sử nhân loại; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường “phi lịch sử” không có cơ sở hiện thực. Việt Nam nên từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chủ nghĩa Mác -Lê-nin để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Luận điệu xuyên tạc đó của các thế lực thù địch đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hoang mang, dao động, nghi ngờ về chủ nghĩa Mác - Lênin, nghi ngờ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng những sai lầm trong quá trình phát triển đất nước để bới móc, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử. Trong quá trình phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta khó có thể tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Các thế lực thù địch luôn tận dụng những sai lầm, khuyết điểm đó để tiến công Đảng Cộng sản theo thể thức tuyệt đối hoá sai lầm khuyết điểm, thổi phồng sai lầm khuyết điểm như vấn đề tham ô, tham nhũng, xử lý kỷ luật cán bộ hoặc thay đổi cán bộ lãnh đạo để gây mâu thuẫn, chia rẽ bè phái trong Đảng, chia rẽ giữa Đảng với nhân dân. Điều này tạo ra sự rạn nứt từ bên trong, làm suy yếu từ nội bộ Đảng để chúng dễ bề chống phá.
Những thông tin và luận điệu xuyên tạc nêu trên mục đích là làm xấu hình ảnh của dân tộc ta, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tạo ra sự nghi ngờ, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo, vào Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, cần nhận thức rõ để có thể đấu tranh phản bác những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc về lịch sử, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


NÂNG CAO CẢNH GIÁC TRONG CUỘC CHIẾN "KHÔNG KHÓI SÚNG" HIỆN NAY


Chiến lược “diễn biến hòa bình” là chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu để chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước XHCN.Chiến lược “Diễn biến hòa bình” thực hiện bằng chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, bóp nghẹt về kinh tế... làm suy yếu, tan rã đối phương nhằm mục tiêu “không đánh mà thắng” đã được các nhà chính trị, quân sự nhiều nước thực hiện từ lâu.
Hiện nay, bản chất của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam không hề thay đổi.Các thủ đoạn mới chỉ là việc thay hình, đổi dạng cho phù hợp với tình hình và diễn biến của thời cuộc. Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch dùng mọi phương thức trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch đã coi thủ đoạn “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang (LLVT) là một trong những mục tiêu, nội dung tấn công chủ yếu nhằm tìm cách thủ tiêu, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với LLVT.
Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn này, các thế lực thù địch đã và đang triển khai mạnh mẽ các mũi tấn công vào đạo đức, lối sống bằng các chiêu bài dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong LLVT dần dần bị suy thoái về đạo đức, lối sống, quen dần với cuộc sống hưởng thụ, đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích vật chất, sao nhãng, xem nhẹ việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chúng ra sức tuyên truyền phủ nhận quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; xuyên tạc Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta; làm lu mờ bản chất, truyền thống của Quân đội, Công an; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, chiến sĩ, làm mất phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của LLVT. Đồng thời, ra sức công kích phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với LLVT; đòi xóa bỏ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp trong Quân đội. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử có Quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị Quân đội, Công an,… hòng làm mất uy tín của Quân đội, Công an. 
Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, chúng lợi dụng ưu thế của internet để xây dựng hàng loạt các trang thông tin, các blog có nội dung kích động, chống phá Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là sử dụng các hình ảnh cắt ghép, có nội dung lệch lạc nhằm bôi nhọ, làm mất uy tín của lực LLVT với nhân dân, cùng với đó, chúng triệt để sử dụng thủ đoạn dùng mạng xã hội để nhanh chóng kết nối thành viên, truyền bá tư tưởng phản động, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chia rẽ Đảng, Nhà nước, LLVT với nhân dân; tung tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội và đặc biệt là trước các vấn đề nhạy cảm, vào các thời điểm nhạy cảm như tổ chức đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kỷ niệm các sự kiện lớn của đất nước.
Trước thực tiễn đó, việc tiến hành đánh giá, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch đòi “phi chính trị hoá” LLVT nhằm chống phá cách mạng trong giai đoạn hiện nay; đồng thời đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh với âm mưu, hoạt động đòi “phi chính trị hoá” LLVT là vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa chiến lược và cấp thiết hơn bao giờ hết. 
Những biểu hiện trên đây tuy không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên.Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.


CẢNH GIÁC VỚI GIỌNG ĐIỆU “CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ”


Trong bài viết “Bàn về cải cách chính trị”, đăng tải trên trang mạng boxitvn,net gần đây của Nguyễn Đình Cống đã xuyên tạc, phá hoại sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Bàn về cải cách và suy diễn chủ quan là giọng điệu xuyên tạc với dụng ý xấu của Nguyễn Đình Cống khi cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam rất thích dùng từ “đổi mới”, trong khi có nhiều việc thực ra là sửa sai. Với nền chính trị của VN hiện nay nên dùng từ cải cách có lẽ sát đúng hơn”. Rõ ràng Nguyễn Đình Cống cũng thuộc diện người có hiểu biết ở nước người, chưa nói là có thể hơn nhiều người, nhưng lại chưa hiểu rõ ở Việt Nam. Chúng ta biết rằng, trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đoàn kết, thống nhất, phấn đấu thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước thì vẫn còn một số người cố tình hướng lái với dụng ý xấu để người khác hiểu nhầm về đổi mới và cải cách. Ví như cách của Nguyễn Đình Cống là sự dẫn luận, chứng minh ở nước này, nước khác nhưng có sự khác xa về văn hóa, chế độ chính trị, kinh tế, xã hội… với Việt Nam. Nói tóm lại là rất khác với Việt Nam. Mà theo cải cách của họ đã cho thấy, chẳng có gì là thuận buồm xuôi gió, thậm chí gặp nhiều vấn đề chưa có lời giải đáp. Thực tế lịch sử đã chứng minh rõ điều đó.
Cũng về chủ đề cải cách, Nguyễn Đình Cống còn xuyên tạc thực tế dân chủ ở Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Đình Cống vu khống rằng: “Đảng đã chiếm đoạt quyền của dân”; “tạo ra một quốc hội bị lệ thuộc”. Ông dẫn ra nhiều vấn đề theo cách ngụy biện, hướng lái người đọc chống Đảng Cộng sản qua phương thức tấn công vào “dân chủ”, vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân là “Quốc hội”. Những nội dung trong bài viết luận về mối quan hệ quan trọng giữa các chủ thể là Đảng, Quốc hội, Nhà nước một cách biệt lập theo mô hình đâu đó trên thế giới xuất hiện đã xa xưa, mà tất cả không còn gì là vấn đề mới, càng không là phát hiện mới của Nguyễn Đình Cống.
Về Đảng Cộng sản với vai trò lãnh đạo của Đảng, cũng như vai trò Đảng cầm quyền của Đảng không phải đến nay mới được đề cập và bàn luận. Song điều mà chúng ta quan tâm chính là ở nội dung đề xuất của Nguyễn Đình Cống: “Việc quan trọng tiếp theo nhưng cũng nên làm ngay là chuyển từ một đảng lãnh đạo cách mạng và nắm giữ chính quyền theo lối toàn trị thành một đảng chính trị cầm quyền”. Có thể thấy, việc Nguyễn Đình Cống nêu ra không ngoài mục đích nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản mà thôi. Chúng ta đều biết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy mục đích phấn đấu cao nhất là đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Những ai như Nguyễn Đình Cống chưa hiểu hoặc cố tình xuyên tạc sự thật ấy chỉ là kẻ đang có dụng ý xấu với Đảng, với dân, với nước.
Ai cũng biết, góp ý kiến tham gia xây dựng, củng cố Quốc hội, Nhà nước và hệ thống chính trị là trách nhiệm chính trị của mọi công dân Việt Nam. Do vậy, ý kiến của người dân nào tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Quốc hội đều được Đảng trân trọng và lắng nghe, tiếp thu. Trong bài viết, Nguyễn Đình Cống đưa ra một số tiêu chí để nhân dân tham gia bầu quốc hội cũng là một trong hàng vạn ý kiến, mà thật ra không có gì mới. Nếu có chăng thì chỉ là cách ông thể hiện mình là người hiểu biết một cách làm của nước khác, ở một thể chế chính trị khác không phù hợp với Việt Nam. Điều không khó để nhận ra là Nguyến Đình Cống đang muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
 Mọi người hãy cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, phê phán những giọng điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới đất nước, những âm mưu, hoạt động gây hoài nghi, lôi kéo, kích động chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của những phần tử thù địch, cơ hội chính trị trên các trang mạng xã hội làm tổn hại đến lợi ích Quốc gia, dân tộc.


VẪN LÀ LUẬN ĐIỆU “DÂN CHỦ LÀ PHẢI ĐA DẢNG” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG


Đại hội XIII của Đảng đang đến gần, các thế lực thù địch, phản động trong nước và ở nước ngoài tiếp tục rêu rao khẩu hiệu “dân chủ, nhân quyền” ở Việt Nam, chúng lừa dối dư luận cho rẳng “Dân chủ là phải đa đảng”, thực chất của khẩu hiệu này là gì?
Chúng nói, “dân chủ là phải đa đảng”. Nhưng không nhìn vào thực tế, ở một số nước tư bản như Hoa Kỳ - được mệnh danh là “thiên đường tự do”, trong suốt hàng trăm năm qua kể từ khi ra đời, trong bối cảnh nhiều đảng, nhưng thực chất chỉ có hai đảng lớn nhất của giai cấp tư sản thay nhau cầm quyền. Tuy là hai đảng nhưng khó ai có thể tìm thấy sự khác nhau về bản chất, về lập trường giai cấp và hệ tư tưởng giữa hai đảng đó, và nếu có khác nhau thì chỉ ở tên gọi và một số chính sách nhất định mà thôi.
Đảng Cộng sản với lịch sử hơn 100 năm, người đại diện và đấu tranh không mệt mỏi vì quyền lợi của hàng triệu công nhân và những lý tưởng cao đẹp, có thời kỳ bị loại ra ngoài vòng pháp luật, các đảng viên của đảng luôn bị đe dọa, bị khủng bố; luật pháp “khoanh tròn” hoạt động của Đảng Cộng sản trong không gian chính trị nhỏ bé và ngột ngạt nên chẳng có cơ may phát triển, còn nói gì đến cái gọi là dân chủ trong việc đấu tranh giành vị trí cầm quyền?
Trong XHCN, dân chủ là quyền làm chủ đất nước, xã hội và làm chủ bản thân mình một cách toàn vẹn. Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra một cách dân chủ, công khai và vì lợi ích của nhân dân. Quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân lao động và được quyết định bởi chính nhân dân. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền XHCN là công cụ trong tay nhân dân, để nhân dân thực hiện quyền làm chủ một cách toàn diện và tự do, nhằm bảo vệ quyền làm chủ của chính mình và độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tôn trọng độc lập, chủ quyền của dân tộc khác.
Bên cạnh đó thể chế chính trị, Nhà nước pháp quyền đó cũng chống lại tất cả những gì xâm phạm tới và làm tổn hại tới quyền dân chủ của nhân dân lao động. Do đó, dân chủ XHCN vừa là mục tiêu cao cả, vừa là động lực căn bản và mạnh mẽ của sự phát triển xã hội và tiến bộ toàn diện không ngừng của nhân dân, đất nước với phẩm giá con người được thừa nhận một cách đầy đủ, tôn trọng và bảo vệ.
Lấy hiện trạng ngày nay xã hội còn những tồn tại, những hạn chế, nhiều vấn đề mất dân chủ, điển hình là những vụ án mà cá nhân lãnh đạo vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ để quy đó là lỗi cơ chế, là lỗi hệ thống? Đó là sự quy kết hoàn toàn sai lệch. Không có bất cứ xã hội nào tránh được những hạn chế khi thực hiện. Với Việt Nam, việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN tất còn nhiều tồn tại chưa dễ gì gỡ bỏ, và việc xảy ra những vấn đề mất dân chủ là biểu hiện của tồn tại xã hội mà chúng ta đang đấu tranh, ngăn ngừa, đó không phải là bản chất của xã hội XHCN.
Như vậy, có thể thấy bằng giọng điệu tinh vi để vu khống chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ không có dân chủ, họ cổ súy tư tưởng bài xích Đảng, từ đó thúc đẩy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi thực hiện nhà nước “tam quyền phân lập”. Phương thức, thủ đoạn rất nguy hiểm mà phần tử cơ hội chính trị, phản động sử dụng trong các “kiến nghị”, “góp ý”, “trao đổi” là đề và gửi đến cơ quan cao nhất của Đảng, đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sau đó phát tán trên các trang mạng hải ngoại, blog phản động, mạng xã hội. Người đọc cần phải tỉnh táo nhận diện, tránh bị cuốn vào trận địa xảo trá của họ, dẫn tới tư tưởng hoài nghi, hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin với Đảng.
VTG./.

DI CHÚC BÁC HỒ LÀ “CẨM NANG” SÂU SẮC VÀ TOÀN DIỆN


Chúng ta đã nghiên cứu và ngày càng làm rõ tầm vĩ đại bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại: Là đường lối phát triển, là cương lĩnh xây dựng đất nước, là chiến lược cách mạng, là tầm nhìn vượt thời đại…
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ “di chúc” cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta mà còn cho tất cả, các đảng anh em, nhân loại tiến bộ… Chính vì thế, ý nghĩa phổ quát của kiệt tác vừa là truyền thống, dân tộc vừa là nhân loại, quốc tế, là tư tưởng thời đại, cho hôm qua, hôm nay và cả mai sau!
Ngày nay, trong xu thế văn hóa toàn cầu đang trong cuộc đối thoại lớn, đây cũng là văn bản mẫu mực, tiêu biểu cho một văn bản đối thoại bởi đã đáp ứng cao nhất các yếu tố cơ sở: Chủ thể diễn ngôn có đầy đủ nhất tư thế phát ngôn (là Lãnh tụ có uy tín trên thế giới, là vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, là Cha già dân tộc); chủ thể hiểu biết một cách sâu sắc, toàn diện văn hóa dân tộc và nhân loại; là tiếng nói chân thành nhất của tình thương yêu con người, yêu hòa bình; là tiếng nói ân nghĩa, chân tình, thủy chung; là niềm tin, niềm lạc quan vô hạn…
Di chúc của Bác đã tỏa sáng, làm giàu có thêm, làm tinh tế hơn cho văn hóa Việt Nam và văn hóa nhân loại.
Trước hết là văn hóa niềm tin. Hiểu theo khái niệm thì “di chúc” là văn bản ghi lại những điều mà người sắp từ giã cõi đời dặn dò những người đang sống. Do vậy tự thân văn bản đã gợi nên những gì nhớ tiếc, ngậm ngùi, xót thương. Nhưng Di chúc của Bác Hồ tuyệt không gợi một sắc thái ý nghĩa nào như vậy mà luôn có xu hướng vượt thoát ra ngoài ranh giới thể loại để mang tầm vóc một văn kiện lịch sử vô giá. Đây là hiện tượng siêu thể loại mà chính tác giả cũng không gọi là “di chúc”, chỉ là “để sẵn mấy lời…”. Không ngẫu nhiên mở đầu là một niềm tin chiến thắng, đi suốt tác phẩm hai chữ “nhất định” được nhắc lại 5 lần.
Đó là văn hóa đoàn kết. Văn bản chỉ hơn một nghìn từ nhưng từ “đoàn kết” được nhấn mạnh tới 8 lần, riêng phần “nói về Đảng” nhắc lại 5 lần. Bác coi “đoàn kết” là truyền thống, cũng là nguyên nhân làm nên mọi thắng lợi của Đảng. Phần nói về phong trào cộng sản thế giới “đoàn kết” được nhắc lại hai lần nhưng hai chữ “anh em” biến thể của “đoàn kết” (anh em như chân với tay) được nhấn mạnh 4 lần. Cái gốc của đoàn kết là câu nói vàng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đó là chân lý, nguyên lý, cũng là đạo lý.
Đó là văn hóa vì dân, phục vụ dân (hai chữ “phục vụ” được nhắc lại 7 lần). Là văn hóa cầm quyền lãnh đạo nhân dân nhưng cũng phải là “đầy tớ thật trung thành” của nhân dân!...
Đoạn cuối văn bản khép lại bằng câu chữ nhưng mở ra cả một chân trời lý tưởng, một mục đích đi tới phồn vinh, hạnh phúc cho cả dân tộc ta!
Di chúc là “cẩm nang” cho ứng xử văn hóa trong cuộc đối thoại văn hóa toàn cầu hôm nay và cả mai sau!
Tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, bởi đó là tư tưởng tiến bộ vì con người, vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc nhân loại. Kết tinh cao nhất tư tưởng đó nên Di chúc của Người mãi vĩnh hằng, trường tồn, muôn thuở!