Social Icons

Pages

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

Đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng


(ĐCSVN) - Càng gần đến những ngày lễ lớn và những sự kiện lịch sử của năm 2024, các thế lực thù địch chống đối chính trị càng tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là trên không gian mạng. Đây là một trong những nhân tố có thể tạo ra nguy cơ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo các tầng lớp Nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh chống thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc, dân chủ cho Nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, đó là nhận định không chỉ của Đảng, Nhân dân ta mà còn là của bè bạn quốc tế.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, từ khi ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị tinh thần của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Cần khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng cùng tham gia lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng nhất, chân chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 94 năm qua đã chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.

Thực tế đã minh chứng, trải qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; năm 2008 ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống Nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống, nhất là về ăn ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống.

Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực và ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nêu rõ: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, điều đó càng chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là bất biến, không thể có một thế lực nào thay thế được Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thế nhưng, đã trở thành thông lệ, lợi dụng những sự kiện quan trọng của đất nước như: Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2024), Tết Nguyên đán Giáp Thìn, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024)…, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chống đối, cơ hội chính trị lại diễn ra dưới nhiều hình thức như: soạn thảo tài liệu mạo danh, nặc danh, kiến nghị, thư trao đổi… nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận thành tựu phát triển của đất nước; thổi phồng những khuyết điểm, hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; từ đó quy kết, đổ lỗi nguyên nhân là do thể chế chính trị, nhằm gây sức ép đòi “đổi mới thể chế chính trị”… Mặt khác, chúng ra sức xuyên tạc, bịa đặt đời tư nhân cá nhân, nhằm bôi nhọ thanh danh, uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Càng gần đến những ngày lễ lớn và những sự kiện lịch sử của năm 2024, các thế lực thù địch chống đối chính trị càng tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là trên không gian mạng. Chúng xuyên tạc, phủ nhận Cương lĩnh, đường lối và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; hướng lái hệ thống pháp luật rập khuôn, máy móc với mô hình chính trị nước ngoài, xa lạ với thực tiễn Việt Nam, chủ yếu là mô hình tam quyền phân lập. Khi không đạt được mục đích, chúng lại quay sang hoạt động tuyên truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây là một trong những nhân tố có thể tạo ra nguy cơ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn. Theo đó, để bảo vệ vững chắc Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, chúng ta cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:

Một là, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, tính tiên phong của Đảng; kiên quyết, kiên trì, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong bất kỳ hoàn cảnh nào; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đồng thời đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, bảo đảm cho Đảng ta đủ sức lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Tuyệt đối không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư tưởng chính trị đòi đa nguyên, đa đảng.

Hai là, chủ động phát hiện kịp thời những phần tử cơ hội trong bộ máy Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang; xử lý nghiêm minh theo pháp luật đối với các hoạt động chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, không để các thế lực thù địch tạo dựng ngọn cờ tập hợp được lực lượng. Tăng cường quản lý hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình, Internet, mạng xã hội… Không để xảy ra sơ hở để bên ngoài có thể lợi dụng xâm nhập, thu thập bí mật, xuyên tạc phủ nhận truyền bá quan điểm tư tưởng thù địch và kích động phá hoại. Đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh, vô hiệu hóa các trang mạng xã hội có nội dung xấu, độc; tăng cường giáo dục đối thoại với những người có quan điểm sai trái, ngăn chặn sự tác động của bọn phản động bên ngoài, không đẩy họ vào thế đối địch, đồng thời kiên quyết xử lý những trường hợp đã diễn biến từ ta sang địch.

Ba là, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội - dân chủ, chủ nghĩa thực dụng. Kiên quyết bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, đặc biệt là mục tiêu, lý tưởng, con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn; phát triển đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động, mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa; có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các thành tố trong hệ thống chính trị và Nhân dân.

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống những luận điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng để có luận chứng bác bỏ có sức thuyết phục từng luận điểm. Trên cơ sở đó, huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng hợp thành trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, tiến hành phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch, với các luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước trong công tác xây dựng Đảng, trong quản lý kinh tế - xã hội nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn, vĩ đại và vinh quang, nhưng cũng cực kỳ khó khăn, gian khổ. Chúng ta khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng ta - một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của Nhân dân, là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng./. 

Thượng tá, ThS Vương Đức Thương (Học viện Chính trị)

Nguyễn Lương Bằng - người Cộng sản kiên trung, mẫu mực

 

(ĐCSVN) - Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Lương Bằng (02/4/1904 - 02/4/2024) là dịp để toàn thể cán bộ, đảng viên, Nhân dân thể hiện sự tri ân, tôn vinh người chiến sĩ cộng sản xuất sắc, nhà lãnh đạo tài năng tận tụy cống hiến hy sinh hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.

Trong khuôn khổ bài viết này tập trung làm rõ những cống hiến thể hiện tài năng, phẩm chất cao quý của người cộng sản kiên trung mẫu mực Nguyễn Lương Bằng trên các cương vị lãnh đạo, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc ta.

Đặt vào từng hoàn cảnh lịch sử mới hiểu rõ vai trò tiên phong và tài năng của đồng chí Nguyễn Lương Bằng trong tổ chức xây dựng Đảng và Nhà nước. Đó là từ giai đoạn hết sức khó khăn, phức tạp của quá trình vận động cách mạng khi Đảng ta chưa ra đời (trước năm 1930), trong bối cảnh sự đàn áp khắc nghiệt của chế độ thực dân, phong kiến đối với cách mạng nước ta (trước năm 1945), những gian nan của công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chống “thù trong giặc ngoài” (1945 -1946), trước những khó khăn, khốc liệt của hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và sự phức tạp của quan hệ quốc tế (1947 - 1975)…

Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - người chiến sĩ Cộng sản tiên phong trong công tác tư tưởng và tổ chức thời kỳ đầu của cách mạng Việt Nam.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở thôn Ðông, nay thuộc xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương; lớn lên trong bối cảnh đất nước bị thống trị, Nhân dân phải sống cực khổ, lầm than, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã sớm có tinh thần yêu nước, thương dân, lòng căm thù thực dân xâm lược, nuôi ý chí phá bỏ ách thống trị bóc lột của thực dân, phong kiến. Khi được gặp Nguyễn Ái Quốc, được tiếp cận con đường cứu nước của Người, người thanh niên Nguyễn Lương Bằng đã nhanh chóng trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, một lòng một dạ hy sinh cho sự nghiệp cách mạng đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân.

 Đồng chí Nguyễn Lương Bằng thăm quê hương Thanh Miện năm 1976 (Ảnh: huyendakglei.kontum.gov.vn)

Ngay từ những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, được chứng kiến và tham gia các phong trào yêu nước, được tuyên truyền, giác ngộ, Nguyễn Lương Bằng đã được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu, tháng 9/1926, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ về nước hoạt động để thiết lập hệ thống liên lạc, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và mở rộng phong trào cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí đã thể hiện vai trò là một trong những người tiên phong tổ chức thắng lợi việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, xây dựng thành công các cơ sở cách mạng của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng như thiết lập thành công hệ thống giao thông liên lạc trong nước với nước ngoài trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, trước sự truy lùng gắt gao của kẻ thù.

Theo chủ trương của tổ chức, đồng chí Nguyễn Lương Bằng tình nguyện đi vào phong trào “vô sản hóa”, nắm bắt thực tiễn, góp phần thúc đẩy sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta, đẩy nhanh quá trình vận động tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Ðồng chí là một trong những nhà lãnh đạo tiền bối góp phần xây dựng những nền tảng đầu tiên về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Ðảng, đi đầu truyền bá chủ nghĩa cộng sản khoa học ở nước ta thời dựng Đảng, là một cộng sự đắc lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh “trong việc xây dựng Đảng ta, giáo dục đảng viên, chăm lo sự vững vàng của Đảng về tư tưởng và tổ chức”.

Trong thời gian hoạt động cách mạng dưới chế độ thực dân, từ 1925 đến 1945, đồng chí Nguyễn Lương Bằng nhiều lần bị bắt, trải qua nhiều nhà tù thực dân hà khắc. Ðương đầu với những cuộc tra tấn dã man của bọn đế quốc, đồng chí không hề nao núng, rất mực trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Ðảng Cộng sản và giai cấp công nhân, luôn giữ vững khí tiết cách mạng.

Đúng như bí danh Sao Ðỏ - đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã trở thành một tấm gương sáng đối với những người cách mạng, còn kẻ thù thì khiếp sợ. Qua hơn 10 năm tù đày ở nhiều nhà tù, từng trải qua mọi thử thách của sự khủng bố, thiếu thốn, bệnh tật, đồng chí vẫn kiên trì hoạt động cách mạng, lãnh đạo và giáo dục các đồng chí của mình đấu tranh với kẻ thù và bọn phản bội. Đồng chí đã dũng cảm, mưu trí tổ chức vượt ngục hai lần thành công. Lần vượt ngục của đồng chí năm 1943 như một huyền thoại, thoát khỏi nhà tù Sơn La vượt qua những con đường chông gai cực kỳ nguy hiểm để trở về với Ðảng và Nhân dân, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng rất chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, đặc biệt coi trọng phương châm dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng, xem đó là phương châm công tác của mình để phát triển lực lượng cũng như các phong trào cách mạng. Đồng chí cho rằng, nếu không dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng sẽ dẫn đến tình trạng “lỏng chân đứng”. Vì vậy, đồng chí ra sức tổ chức, xây dựng các tổ chức, đoàn thể quần chúng, lấy đó làm bàn đạp để xây dựng Đảng. Quan điểm của đồng chí là các tổ chức, đoàn thể quần chúng lớn mạnh, phát triển rộng rãi, thì Đảng cũng sẽ lớn mạnh, phát triển rộng rãi. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đồng thời, cũng là sự nghiệp của Đảng, khi kết hợp hai yếu tố đó sẽ tạo nên sức mạnh của Đảng và bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - nhà lãnh đạo tài năng, gương mẫu.

Tháng 8/1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang (từ ngày 14 - 15/8), đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (ngày 16 - 17/8) đã bầu Đồng chí vào Ban Thường trực Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam. Là thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã cùng các đồng chí lãnh đạo của Ðảng và của Tổng bộ Việt Minh tổ chức cuộc đấu tranh của Nhân dân ta trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn chống ách áp bức của hai đế quốc Pháp, Nhật, đối phó với những cuộc khủng bố điên cuồng, đẩy tới cao trào cứu nước. Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng, đồng chí đã tham gia lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám và là người tham gia sáng lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước cách mạng đầu tiên trong lịch sử dân tộc, tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là người học trò, đồng chí gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Ðảng, giáo dục đảng viên, chăm lo sự vững vàng của Ðảng về tư tưởng và tổ chức, nhân tố bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Quá trình hoạt động và cống hiến cho cách mạng của đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX: thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng nói chuyện thân mật với cử tri sau khi bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu số 1, khu phố Hai Bà Trưng, khu vực bầu cử số 3, thành phố Hà Nội, ngày 25/4/197 (Ảnh: TTXVN) 

Một trong những nhiệm vụ góp phần thực hiện thành công đường lối kháng chiến của Đảng, tăng cường lực lượng của ta, từng bước làm chuyển hóa tương quan lực lượng giữa ta và địch là công tác lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng. Nhiệm vụ quan trọng đó được Đảng trao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng phụ trách, nhất là từ lúc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đến lúc toàn quốc kháng chiến. Năm 1947, sau khi các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ di chuyển lên chiến khu Việt Bắc, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được cử phụ trách công tác kinh tế, tài chính của Đảng, giữ chức Trưởng Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương. Với những đóng góp xuất sắc trong quá trình hoạt động cách mạng nói chung và trong chỉ đạo công tác kinh tế - tài chính của Đảng nói riêng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã bầu đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1951 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), đồng chí được bổ nhiệm Tổng Giám đốc đầu tiên.

Nhận nhiệm vụ Trưởng ban Kinh tế - Tài chính Trung ương, rồi Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đồng chí Nguyễn Lương Bằng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, đã chỉ đạo thực hiện nhiều quyết sách hiệu quả, tăng cường tiềm lực quan trọng cho các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm phụ trách công tác kinh tế, tài chính của Đảng, Đồng chí đã đề xuất, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách đúng đắn và sáng tạo về kinh tế, tài chính; xây dựng những cơ sở sản xuất, kinh doanh của tài chính Đảng, góp phần quan trọng vào việc ổn định nền kinh tế nước nhà; bảo đảm khối lượng tài lực to lớn đáp ứng nhu cầu lãnh đạo và hoạt động của Đảng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đến thắng lợi. Đồng chí cũng là người chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tài chính có phẩm chất và năng lực, đóng góp những cán bộ cốt cán cho các ngành kinh tế và tài chính của Nhà nước. Đảng ta đánh giá: “Đồng chí đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng nền tài chính của nước ta và tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp”.

Trên cương vị Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Liên Xô và phụ trách cả Đông Âu, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã tiến hành các hoạt động hoàn thành các mục tiêu đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa khác, đoàn kết với giai cấp công nhân và Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cùng chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, với tài năng và trí tuệ của mình, đồng chí đã tiến hành nhiều hoạt động tăng cường quan hệ tốt đẹp với sứ quán các nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và các tổ chức quốc tế, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ vì hòa bình, dân chủ của Nhân dân tiến bộ trên thế giới, phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp, ủng hộ cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam.

Năm 1956, trước yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao vừa đảm đương nhiệm vụ Trưởng ban Kiểm tra Trung ương của Đảng kiêm chức Tổng Thanh tra của Chính phủ, Đồng chí đã luôn thể hiện được tài năng lãnh đạo và sự trung thành với lợi ích của Đảng và Nhân dân, tính gương mẫu và cái tâm trong sáng của người Cộng sản. Đồng chí khẳng định: “Trong công tác xây dựng Đảng có ba công tác quan trọng là công tác tư tưởng, tổ chức và kiểm tra. Nếu thiếu một trong ba công tác này sẽ ảnh hưởng không tốt đến công tác xây dựng Đảng”.

Theo đồng chí, công tác kiểm tra phải nắm vững phương châm thi hành kỷ luật của Đảng trước hết là nhằm giáo dục đảng viên không tái phạm sai lầm và việc áp dụng một hình thức kỷ luật nào cũng là nhằm giáo dục để mở đường cho đảng viên sửa chữa sai lầm; đồng thời để phòng ngừa, ngăn ngừa sai phạm; phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng. Đồng chí chỉ rõ: “Bản thân công tác kiểm tra của Đảng có mục đích bảo đảm sự đoàn kết nhất trí trong Đảng; bảo đảm chấp hành mọi đường lối, chính sách của Đảng”; “Công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ tìm ra những sai lầm trong thực hiện chủ trương, đường lối và chính sách, mà còn tìm ra những thiếu sót, sai lầm trong bản thân các nghị quyết, chỉ thị, chính sách để kịp thời bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Qua công tác kiểm tra, có thể thấy được tinh thần, năng lực của đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó có chính sách cán bộ đúng đắn từ bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm… và xử lý những cán bộ có sai phạm, những cán bộ thoái hóa, biến chất”. Bởi vậy, công tác kiểm tra, thanh tra có tác dụng to lớn trong việc củng cố Đảng, củng cố chính quyền, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Khi ở cương vị là Phó Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Lương Bằng là cộng sự tin cậy của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, kế tục sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh - chiến đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Trong những tháng ngày căng thẳng của năm 1972, khi đế quốc Mỹ trở lại leo thang đánh phá ác liệt bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc lần thứ hai, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước kiên quyết chỉ đạo quân, dân miền Bắc quyết tâm đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ định ép Việt Nam phải chấp nhận những điều khoản do chúng đặt ra tại bàn đàm phán ở Hội nghị Pari. Đồng thời, đồng chí trực tiếp đến những nơi bị bom đạn Mỹ tàn phá để thăm hỏi, động viên đồng bào, chiến sĩ.

Trong phạm vi công việc được phân công phụ trách, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng rất quan tâm đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, cách thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền và nhất là đời sống Nhân dân các địa phương. Sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, đồng chí đã đến thăm và làm việc tại một loạt địa phương, thăm hỏi, động viên đồng bào, chiến sĩ khắc phục khó khăn, tranh thủ điều kiện hòa bình ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất, làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thành công của đồng chí Nguyễn Lương Bằng trong thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng giao phó gắn liền với phương pháp hoạt động, đồng thời thể hiện bản lĩnh của một nhà lãnh đạo luôn đặt lợi ích của dân tộc, của Đảng lên trên hết. Trước sự phức tạp, phong phú, sinh động của cuộc sống, để giải quyết một vấn đề thực tiễn đặt ra hoặc vấn đề chiến lược của Đảng, Đồng chí luôn kiên nhẫn thực hiện những phương pháp vừa bảo đảm nguyên tắc vừa có sự hài hòa trong quan hệ công tác. Phương pháp lãnh đạo đó không chỉ góp phần hình thành những chỉ thị, nghị quyết sát hợp thực tiễn, mà còn góp phần quan trọng tăng cường xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân.

Ðánh giá về đồng chí Nguyễn Lương Bằng, đồng chí Ðỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã khẳng định: “Anh Nguyễn Lương Bằng, anh cả quý mến của chúng ta đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc. Anh cả là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất, về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tác phong cần cù, giản dị; là người lãnh đạo, người đồng chí được toàn Ðảng, toàn dân yêu mến, cảm phục”. Cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú và những cống hiến xuất sắc của các lớp cán bộ cách mạng tiền bối, trong đó có đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã viết nên những trang sử hết sức vẻ vang của cách mạng Việt Nam, khai mở con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa Nhân dân ta trên con đường xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, phồn vinh.

Hiện nay, công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và tình trạng chậm phát triển, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội, quốc phòng - an ninh được củng cố, đối ngoại được mở rộng... đem lại thế và lực mới cho đất nước. Trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực... tiếp tục đặt ra những thách thức lớn đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Lương Bằng (02/4/1904 - 02/4/2024) là dịp để toàn thể cán bộ, đảng viên, Nhân dân thể hiện sự tri ân, tôn vinh người chiến sĩ cộng sản xuất sắc, nhà lãnh đạo tài năng tận tụy cống hiến hy sinh hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Đây cũng là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, noi gương học tập đồng chí Nguyễn Lương Bằng, phát huy vai trò tiên phong, nêu gương thực hành đạo đức cách mạng, tận tụy cống hiến, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, sáng tạo đổi mới, nỗ lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XIII của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Nguyễn Thị Ánh

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2024

Bảo vệ tính tất yếu, chính nghĩa của ngoại giao "Cây tre Việt Nam"-Bài 1: Tất yếu khách quan không thể xuyên tạc

 


Thuật ngữ ngoại giao “Cây tre Việt Nam” được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây. Bên cạnh dư luận tích cực, trên không gian mạng cũng xuất hiện nhiều thông tin xuyên tạc, lèo lái dư luận hiểu sai lệch bản chất vấn đề.

Kiên định với trường phái ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”; đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, thù địch, bảo vệ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước là trách nhiệm, bổn phận của mọi cán bộ, đảng viên, công dân yêu nước...

Thấy gì từ thủ đoạn đánh tráo khái niệm?

Năm 2023 đánh dấu những cột mốc quan trọng của ngoại giao Việt Nam, được dư luận tiến bộ toàn cầu ghi nhận, đánh giá cao. Hai dấu ấn nổi bật là việc nâng cấp quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ lên đối tác chiến lược toàn diện và tiếp tục làm sâu sắc, nâng tầm mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc vững chắc, ổn định, bền vững lâu dài và hiệu quả... Truyền thông quốc tế đã dành thời lượng lớn phản ánh, phân tích, bình luận về hai chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đến Việt Nam. Dư luận tích cực bày tỏ sự ủng hộ, đánh giá cao thành tựu ngoại giao và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những dấu ấn và thành tựu ngoại giao của Việt Nam là kết quả vận dụng đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta và hoạt động ngoại giao nhân dân theo trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”.

Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; các quốc gia, dân tộc yêu chuộng hòa bình đứng trước những thách thức mang tính thời đại về bảo vệ độc lập, chủ quyền và thể chế chính trị. Sự cạnh tranh lợi ích gay gắt giữa các cường quốc tác động sâu sắc, toàn diện đến đường lối, chiến lược, sách lược ngoại giao của các nước. Trong bối cảnh đó, việc chủ động thích nghi, lựa chọn chính nghĩa trong các mối quan hệ đa phương và song phương không chỉ là giải pháp giữ vững hòa bình, ổn định cho quốc gia, dân tộc, mà còn góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển trong môi trường toàn cầu. “Chủ động thích nghi” để không phải “bị động chống đỡ”; “chọn chính nghĩa” thay vì “chọn bên”... là những biểu hiện sinh động và cụ thể của trường phái ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”. Tính tất yếu và chính nghĩa của ngoại giao “Cây tre Việt Nam” đã được chứng minh trên thực tế. Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” đã góp phần khẳng định, không ngừng nâng cao cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tiễn sinh động ấy là hiện thực khách quan, không thể xuyên tạc, phủ nhận.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
Ảnh minh họa: Chinhphu.vn 

Tuy nhiên, bên cạnh đại đa số thông tin tích cực, trên không gian mạng xuất hiện không ít thông tin sai lệch. Một số phương tiện truyền thông phát tiếng Việt ở hải ngoại và nhiều tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội mang tư tưởng thù địch ra sức xuyên tạc, phá hoại trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”. Họ cố tình đánh tráo khái niệm “Cây tre Việt Nam” bằng những thuật ngữ mang tính kích động, chống phá, như: “Ba phải”, “hai mặt”, “đu dây”, “hai mang”... Bằng kiểu ngụy biện, suy diễn, quy chụp, võ đoán, “hớt váng”, “cắt ngọn”... họ rêu rao rằng, Việt Nam đang theo đuổi chính sách ngoại giao đi ngược xu thế thời đại, “không giống ai”. Họ gán ghép khiên cưỡng những cuộc xung đột vũ trang, đảo chính, nội chiến đang xảy ra ở nhiều khu vực trên thế giới để so sánh, quy chụp đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là “đu dây”, sớm muộn cũng nhận kết cục “thảm bại”. Đáng tiếc là những luận điệu mang tư tưởng thù địch này lại được một số đối tượng người Việt ở hải ngoại tự xưng là “nhà nghiên cứu”, “nhà phản biện”, “nhà dân chủ”, “nhà đấu tranh”, “học giả”... cổ xúy, tung hô bằng những hình thức gọi là “bàn tròn”, “bình luận”, “góc nhìn”... nhằm gây nhiễu thông tin, lèo lái dư luận. Một số đối tượng lên giọng kiểu bề trên, kẻ cả, lộng ngôn chỉ trích, bôi nhọ, hạ bệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại và thành tựu ngoại giao “Cây tre Việt Nam”...

Tính tất yếu không thể phủ nhận

Theo dõi những thông tin xuyên tạc trên không gian mạng, chúng ta dễ dàng nhận ra bộ mặt thật của những đối tượng thù địch chống phá đất nước. Không phải họ không hiểu bản chất vấn đề, mà họ đã cố tình “cắt ngọn”, “hớt váng” để đánh tráo khái niệm.

Chúng ta đều biết, thuật ngữ ngoại giao “Cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 29 với chủ đề “Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế-Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII”, diễn ra tại Hà Nội, ngày 22-8-2016. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng Bí thư Đảng ta đã nêu rõ bài học kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược trong công tác ngoại giao. “...Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động đối ngoại đã làm nên nhiều thành tích vẻ vang, xây dựng nên một trường phái ngoại giao độc đáo, mang đậm bản sắc "Cây tre Việt Nam"-mềm mại mà cứng cỏi, nhân ái mà quật cường, biết nhu biết cương, biết thời biết thế, biết mình biết người..., thể hiện tâm hồn và khí phách của dân tộc Việt Nam...”.

Tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, diễn ra tại Hà Nội ngày 14-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh, làm sâu sắc thêm trường phái ngoại giao mang bản sắc “Cây tre Việt Nam”. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”, "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển". Tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 32 với chủ đề “Phát huy vai trò tiên phong, xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng”, diễn ra tại Hà Nội ngày 19-12-2023, Tổng Bí thư Nguyễn  Phú Trọng đã phát biểu chỉ đạo ngành ngoại giao tiếp tục phát triển nền ngoại giao hiện đại, vững mạnh toàn diện, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”...

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đúc kết thực tiễn từ lịch sử, tiếp thu sáng tạo tinh hoa thế giới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết đường lối, sách lược ngoại giao “Cây tre Việt Nam” trong cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc "Cây tre Việt Nam”. Sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật phát hành tháng 11-2023.

Tất cả tài liệu, văn bản liên quan đến trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” đều thể hiện rõ tính khoa học, lịch sử, văn hóa..., khẳng định tính tất yếu khách quan trong đường lối, chính sách, chiến lược đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam. Việc sử dụng cụm từ “Cây tre Việt Nam” là cách nói khái quát, hình tượng, đúc kết lịch sử, có sự bổ sung, phát triển tư duy lý luận và giải pháp để phù hợp, thích ứng với xu thế thời đại và đòi hỏi từ thực tiễn. Đó cũng chính là sự thể hiện sinh động việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về công tác đối ngoại. Tất cả những vấn đề đó đều được công khai, minh bạch, phổ biến sâu rộng trên các phương tiện truyền thông. Trong quan hệ hợp tác với các nước, chúng ta cũng thể hiện rõ lập trường quan điểm, chính sách đối ngoại độc lập tự chủ của Việt Nam. Bảo đảm cho “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” trong ngoại giao chính là tổng hòa các chiến lược, sách lược, giải pháp mang tính khoa học, tư duy biện chứng, thể hiện tính tất yếu khách quan. Hiểu về ngoại giao “Cây tre Việt Nam” không thể là kiểu tư duy “cắt ngọn”, “hớt váng”, “chặt khúc” mà cần có tư duy hệ thống, khái quát, tổng hợp... Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” hoàn toàn không phải và không thể là giải pháp “thức thời” theo kiểu “đu dây”, “hai mặt”, “hai mang”... như những luận điệu đả kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch...

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế...

(Trích Văn kiện Đại hội XIII của Đảng)

(còn nữa)

LỮ NGÀN

Bảo vệ tính tất yếu, chính nghĩa của ngoại giao "Cây tre Việt Nam" - Bài 2: Thấm nhuần bản sắc văn hóa và chính nghĩa Việt Nam

 

Dưới góc nhìn văn hóa, trường phái ngoại giao mang bản sắc “Cây tre Việt Nam” là sự thể hiện sáng tạo, phát huy hiệu quả nguồn lực sức mạnh mềm của quốc gia-dân tộc trong giai đoạn mới. Để thực hiện thắng lợi trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cần thấm nhuần tư tưởng, triết lý của tiên tổ, ông cha...

Nhìn từ chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc

Đề cập đến những bài học, thông điệp truyền đời từ truyền thống của tiên tổ, ông cha trong hoạt động đối ngoại, đặc biệt là với các quốc gia láng giềng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “Đó là những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông ta, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị. Những truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy càng được bồi đắp, phát huy và tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh, đã phát triển lên thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc...”.

Vận dụng cách nói của dân gian để khái quát, đúc kết thành trường phái ngoại giao mang đậm triết lý, bản sắc dân tộc theo cách của người đứng đầu Đảng ta, chính là phương pháp hiệu quả để đường lối, chủ trương của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống. Cán bộ, đảng viên và công dân của đất nước, kiều bào ở nước ngoài, khi học tập, quán triệt đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước đều dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thấm, thuận tiện trong vận dụng.

Đó cũng là cách nói khái quát để “định vị” ngoại giao Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Bạn bè khắp năm châu bốn biển khi quan hệ với Việt Nam đều dễ dàng tiếp cận, hiểu rõ lập trường quan điểm, chính sách, phong cách, thái độ của Việt Nam và người Việt Nam trong các quan hệ quốc tế.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
 Ảnh minh họa: tuyengiao.vn

Bình luận về trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”, các nhà nghiên cứu, học giả trong và ngoài nước đều đánh giá cao hình tượng cây tre trong đời sống người Việt. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cây tre đã trở thành biểu tượng văn hóa, văn minh, văn hiến của người Việt Nam. Nền văn hóa nông nghiệp và đặc điểm địa lý vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên khắc nghiệt đã giúp ông cha ta tích lũy, đúc kết những phương cách sinh tồn, thích ứng với thiên nhiên.

Từ đó, tìm ra những giải pháp huy động sức mạnh toàn dân tộc để đấu tranh với các thế lực ngoại bang, bảo vệ hòa bình, giữ yên bờ cõi. Trong hành trình ấy, cây tre Việt Nam là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn, bản lĩnh, khí phách, sức mạnh, khát vọng... con người Việt Nam. “Thân gầy guộc, lá mong manh/ Mà sao nên lũy nên thành tre ơi/ Ở đâu tre cũng xanh tươi/ Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu...”.

Cây tre Việt Nam còn là biểu tượng của khả năng thích nghi với mọi điều kiện hoàn cảnh. Những bài học lịch sử được ông cha truyền lại cho chúng ta thông qua văn hóa dân gian, văn nghệ truyền khẩu. Câu chuyện Thánh Gióng là một dẫn chứng điển hình. Ngựa sắt, gậy sắt, áo giáp sắt, niêu cơm càng ăn càng đầy... (biểu hiện cho khát vọng làm chủ văn minh công nghiệp, thông điệp về phát triển kinh tế, hiện đại hóa lực lượng vũ trang) là những điều kiện cần nhưng chưa đủ. Để quét sạch giặc Ân, Thánh Gióng phải có thêm cây tre. Cây tre tượng trưng cho nguồn sức mạnh nội sinh của văn hóa dân tộc.

Nói “văn hóa còn thì dân tộc còn” chính là sự khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp, kế thừa, phát triển sáng tạo truyền thống ông cha, bản sắc dân tộc trên mặt trận ngoại giao, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trên nguyên tắc cốt lõi “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã soi đường, chỉ lối cho chính sách ngoại giao của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng...

Nhìn từ chiều sâu văn hóa dân tộc, chúng ta thấy rõ, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sử dụng hình tượng cây tre Việt Nam để thể hiện, khẳng định, nhấn mạnh, phát triển triết lý, phương châm, chiến lược, sách lược, giải pháp... ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn mới, chính là lối tư duy khoa học. Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” thể hiện tính kế thừa, phát triển, sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn và xu thế thời đại. Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là thành tố, động lực tạo sức mạnh mềm của dân tộc trong hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xu thế thời đại và lựa chọn chính nghĩa

 Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Cạnh tranh lợi ích giữa các cường quốc ngày càng gay gắt. Xung đột vũ trang, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, đảo chính, nội chiến... cùng nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống đang vượt khỏi tầm kiểm soát ở nhiều quốc gia, khu vực.

Tuy nhiên, những rung chấn, biến động thời cuộc không thể đảo ngược xu thế tất yếu của thời đại, đó là khát vọng hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển. Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” theo nguyên tắc “Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, chủ động thích nghi với từng đối tác, từng hoàn cảnh; kiên trì chọn chính nghĩa, không chọn bên... là hướng đi hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại.

Nhấn mạnh và làm sâu sắc thêm những vấn đề trên đây chính là nhằm củng cố vững chắc cơ sở lý luận và hiện thực khách quan của xu thế đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam. Đó cũng là căn cứ khoa học và thực tiễn để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, làm thất bại các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng văn hóa, ngoại giao.

Chúng ta cũng cần thấy rõ, bất cứ lĩnh vực nào đất nước đạt được thành tựu quan trọng thì ở chiều đối nghịch, các thế lực thù địch cũng ra sức sử dụng các phương thức, thủ đoạn thâm độc hòng phủ nhận thành quả, làm lung lay trận địa tư tưởng của Đảng và nhân dân ta. Việc các thế lực thù địch xuyên tạc bằng những luận điệu ngụy biện, phi thực tế, phản khoa học càng chứng tỏ một thực tế hiển nhiên không thể phủ nhận của những thành tựu đối ngoại, ngoại giao và tính tất yếu, chính nghĩa của ngoại giao “Cây tre Việt Nam”.

Năm nay, đất nước ta kỷ niệm 80 năm truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là cột mốc quan trọng trong trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc. Hòa mình vào các hoạt động kỷ niệm là dịp để mỗi người dân Việt Nam bồi đắp tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, thêm tin yêu Bộ đội Cụ Hồ. Bám theo dòng chủ lưu này, các thế lực thù địch cũng gia tăng cường độ xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Chủ trương “4 không” (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) trong đối ngoại quốc phòng chính là sự cụ thể hóa trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”.

Nắm rõ âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chúng ta cần nêu cao ý thức tự giác học tập, nghiên cứu, quán triệt, thấm nhuần quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong quan hệ quốc tế. Cán bộ, đảng viên và công dân yêu nước cần thẳng thắn bày tỏ quan điểm, đấu tranh kiên quyết với các hành vi xuyên tạc, chống phá của những đối tượng cực đoan, bất mãn trên các nền tảng mạng xã hội. Bảo vệ tính tất yếu và chính nghĩa của ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là cuộc đấu tranh kiên định, kiên trì, kiên quyết và lâu dài. Vì vậy, chúng ta cần vững về mục tiêu, lập trường; chắc về lý luận, sách lược; uyển chuyển về hình thức, giải pháp...

Trước những biến động rất phức tạp trên thế giới và những tác động tiêu cực từ bên ngoài, chúng ta đã kiên định tính độc lập, tự chủ trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc, nêu cao tinh thần hòa hiếu, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược để xử lý đúng đắn, hài hòa quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn và các đối tác quan trọng, cũng như các tình huống phức tạp về biên giới trên bộ và trên biển, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa...

(Trích phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, ngày 19-12-2023)

(còn nữa)

LỮ NGÀN