Social Icons

Pages

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

Không thể xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” của Đảng ta

 

(ĐCSVN) - Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước là chủ trương quan trọng được Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ trương này. Vì vậy, nhận diện đúng và có giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp là dấu son trong lịch sử vẻ vang của Đảng ta, dân tộc ta. Đại hội lần đầu tiên đề cập đến chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng. Cụm từ này xuất hiện đậm đặc trong chủ đề của Đại hội; quan điểm chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng; quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, đột phá chiến lược giai đoạn 2021 - 2030… Đây là một điểm mới, điểm nhấn quan trọng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Do vậy, không thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng và dân tộc ta. Bảo vệ, khẳng định, lan toả và hiện thực hoá chủ trương này là vấn đề vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.

Năm 2023, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ước đạt 5,05% thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Ảnh: TL

Nhận diện các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đại hội XIII thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta với mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Tuy nhiên, các phần tử cơ hội chính trị, phản động, các thế lực thù địch vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chủ trương quan trọng này của Đảng ta. Chúng cho rằng: đó là một “khẩu hiệu trống rỗng”, “nặng tính duy tâm, siêu hình”. Chúng lý sự rằng, “khát vọng” là yếu tố tinh thần; trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần đề cập và nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nên đây là một quan điểm duy tâm, siêu hình; đi ngược lại lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng cũng “gào lên” cho chủ trương đó là “phi thực tế, phản khoa học”, là biểu hiện “chủ quan, nóng vội, duy ý chí” của Đảng độc quyền. Chúng còn mạnh miệng bảo rằng chủ trương đó chỉ là “ảo vọng viển vông, hão huyền”, “không có tính khả thi”; Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ “đánh trống bỏ dùi”, không có kế hoạch và biện pháp triển khai cụ thể, hữu hiệu…

Trong khi đó, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột quân sự Nga - Ukraine kéo dài; lạm phát tăng cao, hậu quả của đại dịch Covid-19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; rủi ro tài chính, tiền tệ, mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực đang hiện hữu… Ở trong nước, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài cần được giải quyết; trong khi đó, dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân.

Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch càng điên cuồng chống phá chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta. Chúng lớn tiếng cho rằng, chủ trương này chỉ là “cái bánh vẽ”, không thể thành hiện thực… hòng đánh lạc hướng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta; kích thích tâm lý bi quan, mơ hồ, chán chường của một bộ phận người dân; kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội và hạ thấp uy tín của Đảng trước nhân dân, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trước những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác cao và nhận rõ đó là những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, hòng chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, làm nhụt chí quyết tâm của toàn dân tộc trên con đường phát triển giàu mạnh, phồn vinh. Chúng ta khẳng định: chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, khả thi với những luận cứ xác đáng, thuyết phục.

Thứ nhất, khát vọng phát triển đất nước có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt

Các nhà kinh điển mác - xít đã khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức song ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động, sáng tạo nên tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan. C.Mác cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[1]. V.I. Lênin chỉ rõ: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”[2]. Đặc biệt, ý thức, tư tưởng hay tinh thần tiến bộ, khoa học, cách mạng một khi được giáo dục, khơi dậy và phát huy đúng cách ở mỗi cá nhân sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong cải tạo xã hội. Để hiện thực hóa sức mạnh ấy, đòi hỏi phải tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ và tổ chức cho quần chúng tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý... Bổn phận của chúng ta là... phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[3].

Thực tiễn lịch sử xã hội loài người chứng minh, sự hình thành, phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc phụ thuộc trước hết vào khát vọng sống, tồn tại và vươn lên của cộng đồng dân tộc đó. Lúc thuận lợi cũng như khi khó khăn, sức mạnh của tinh thần, của ý chí, nhất là ý chí của cả một dân tộc giữ vai trò hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định. Khát vọng phát triển của một dân tộc là nguồn năng lượng nội sinh to lớn và sức mạnh vô địch; là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai. Sự phát triển “kỳ diệu” của một số quốc gia hùng mạnh trong tiến trình lịch sử nhân loại đều bắt nguồn chính từ những khát vọng vươn lên hùng cường như Mông Cổ trong thế kỷ XIII; Anh trong thế kỷ XIX; Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore trong thế kỷ XX và Trung Quốc trong thế kỷ XXI… 

Đối với Việt Nam, khát vọng phát triển đất nước thật sự là sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Thời trung đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, bắt nguồn từ khát vọng về độc lập, chủ quyền quốc gia. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đập tan ách áp bức, bóc lột của đế quốc, thực dân, phong kiến; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công lừng lẫy đó bắt nguồn từ khát vọng mãnh liệt của toàn dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[4] và khát vọng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý thời đại. Hiện nay, khát vọng phát triển giàu mạnh, hùng cường là một động lực mới thúc đẩy dân tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo, lạc hậu, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” và “nguy cơ tụt hậu về kinh tế”.

Rõ ràng, Đảng ta không tuyệt đối hóa vai trò động lực của khát vọng phát triển đất nước mà xác định đây là một trong những động lực cho đổi mới, phát triển; là động lực thúc đẩy chứ không thể thay thế vai trò cơ sở, nền tảng quyết định của yếu tố kinh tế, vật chất, kỹ thuật và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực.

Thứ hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trên cơ sở cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín đất nước

Khát vọng phát triển đất nước bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[5].

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm. Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (Năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD). Năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 - 2020[6]. Lĩnh vực văn hóa, xã hội của đất nước đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đến năm 2020, Việt Nam đã đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới trong khi thu nhập bình quân đầu người còn ở hạng ngoài 100[7].

Một trong những dấu ấn nổi bật nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 là thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”: vừa tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh Covid-19; vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam được truyền thông quốc tế ca ngợi là “mảnh đất tiềm năng” (Forbes), “bình minh đang lên” (báo Nga), “ngôi sao sáng” (Asia Times), “phép màu châu Á” (New York Times), “con Hổ châu Á” (Nikkei Asia)...

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được tiến hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, “năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng được nâng lên”, “hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được củng cố và tăng cường”. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng; tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng[8].

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển; chính trị - xã hội ổn định; văn hóa - xã hội có bước phát triển; quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Nếu năm 1988, thu nhập bình quân đầu người của nước ta mới chỉ đạt 86 USD/người/năm thì đến năm 2020 Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân gần 2.800 USD/người. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc được giữ vững.

Thứ ba, chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là “ý Đảng” hợp “lòng dân”

Quá trình chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIII, các Tiểu ban đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ở Trung ương và địa phương tổ chức gần 60 hội nghị, hội thảo, toạ đàm; thành lập 50 đoàn đi khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học; tổ chức tọa đàm với một số tổ chức quốc tế, 02 đoàn đi khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm ở nước ngoài. Các Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để thảo luận, thông qua Đề cương và các dự thảo văn kiện. Bộ Chính trị đã họp nhiều lần để cho ý kiến hoàn thiện Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương tại các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14 và 15. Các dự thảo Báo cáo đã được chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần và được gửi xin ý kiến rộng rãi của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều tổ chức, cơ quan, đoàn thể... Bộ Chính trị đã quyết định công bố công khai toàn văn các dự thảo Báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để lắng nghe ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Đã có hàng triệu lượt ý kiến đóng góp vào dự thảo các văn kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương; các ý kiến đóng góp được tổng hợp lại thành 1.410 trang giấy A4.

Văn kiện được đánh giá có quá trình chuẩn bị “rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp tiến hành. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định  đổi mới, giữa kế thừa  phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc”[9]. Các ý kiến, đề xuất tâm huyết, trách nhiệm, kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, mong muốn đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; dân tộc ta ngày càng cường thịnh, trường tồn. Tất cả những điều đó chứng minh tính khoa học, khách quan của những đánh giá, các mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Thứ tư, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước được thể chế hoá thành những mục tiêu, tầm nhìn “trăm năm” và những kế hoạch, chương trình cụ thể.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Nói Đại hội XIII không phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021 - 2026) mà phải có tầm nhìn chiến lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng tới tương lai”[10]. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được Đảng, Nhà nước cụ thể hoá, thể chế hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể, với lộ trình và bước đi phù hợp với điều kiện thực tế. Đây là một trong những phương cách khả thi nhất để góp phần hiện thực hóa khát vọng này.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước, những mục tiêu, tầm nhìn 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước: “Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[11].

Giai đoạn 2021 - 2030, Việt Nam xác định chỉ tiêu: Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%. Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,74; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%. Tỷ lệ che phủ rừng ở mức 42%, 100% cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường[12]

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, cần tập trung vào các đột phá cụ thể sau đây: (1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt. (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.

Đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc là một quá trình cải biến xã hội toàn diện và sâu sắc. Để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này, cần huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại với những kế hoạch, biện pháp cụ thể của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn.

Thứ năm, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước bước đầu được minh chứng với kết quả sinh động của nước ta từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay

Hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đã đi qua để lại những dấu ấn nổi bật, trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhất là ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, khó khăn về kinh tế toàn cầu, diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chủ động, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện.

Việt Nam đã nỗ lực duy trì, phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều điểm sáng tích cực. Năm 2021, tăng trưởng kinh tế đạt 2,58%; thu ngân sách tăng 16,4%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD (đưa Việt Nam trở thành 1 trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tương đương 34,4% GDP, tăng 1,2% so với năm 2020. An ninh lương thực được bảo đảm; xuất khẩu nông sản đạt 48,6 tỷ USD[13].

Năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức cao nhất trong hơn 10 năm qua; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu ngân sách vượt 26,4% dự toán, tăng 13,8% so với năm 2021. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt trên 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 11,2%. Nông nghiệp phát triển ổn định; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục trên 53,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu gạo 7,12 triệu tấn. Sản xuất công nghiệp tăng 7,69%. Các ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 19,8%[14].

Năm 2023, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam từng bước phục hồi, quý sau cao hơn quý trước, cả năm ước đạt 5,05% thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới; nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm tăng 3,25%. Thu ngân sách nhà nước vượt khoảng 8,12% so với dự toán trong bối cảnh tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp miễn, giảm, gia hạn nhiều loại thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia, bội chi NSNN được kiểm soát trong giới hạn cho phép.

Xuất nhập khẩu có xu hướng phục hồi, cả năm ước xuất siêu khoảng 28 tỷ USD. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định, tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn, cả năm ước tăng 3,83%, cao nhất trong 10 năm qua; khu vực dịch vụ phát triển khá sôi động, tăng 6,82%; công nghiệp phục hồi nhanh qua từng quý, cả năm tăng 3,02%, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%. An ninh năng lượng, an ninh lương thực được bảo đảm. Giải ngân vốn đầu tư công cả năm 2023 ước đạt 95% kế hoạch, cao hơn năm 2022 cả về tỷ lệ và số tuyệt đối. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% trong bốicảnh thương mại, đầu tư toàn cầu bị thu hẹp; vốn FDI thực hiện đạt gần 23,2 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay.[15].

Một tín hiệu lạc quan nữa là trong khó khăn, chúng ta vẫn tiếp tục quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, các chủ trương, chính sách phát triển văn hoá, con người được triển khai đồng bộ, có hiệu quả. Việt Nam đã ứng phó, kiềm chế, kiểm soát được dịch bệnh, từng bước chuyển sang trạng thái “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”. Các cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh đã được triển khai nhanh chóng, quyết liệt với tinh thần “lợi ích phải hài hoà, rủi ro cùng chia sẻ”, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.

Quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường; môi trường hòa bình, ổn định được giữ vững, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được mở rộng, đi vào chiều sâu, triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; đóng góp tích cực, hiệu quả, có trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác, phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Những giải pháp “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong thời gian tới

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Luôn phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[16]. Để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của các tầng lớp nhân dân trong thời gian tới, cần tiến hành đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, “truyền cảm hứng” về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong các tầng lớp nhân dân.

Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cán bộ, đảng viên, nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của dân tộc. Đổi mới học tập lý luận chính trị, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trước các vấn đề thời sự chính trị của thế giới và trong nước. Cần tăng cường tuyên truyền, giác ngộ, “truyền cảm hứng” tích cực về khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, với sự sinh động, phong phú, thiết thực và hiệu quả bằng các hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú, hấp dẫn.

Tập trung khơi dậy “tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc[17]. Làm cho khát vọng phát triển đất nước trở thành niềm vinh dự, tự hào, phương châm, lẽ sống và hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người dân Việt Nam, nhất là thanh niên, học sinh, sinh viên. Coi trọng giáo dục thế hệ trẻ về “lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”[18].

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, “truyền cảm hứng” về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, trong đó coi trọng giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên. (ảnh minh họa. Ảnh: TL)

 Đặc biệt, dưới góc độ kinh tế, khát vọng phát triển đất nước được thể hiện chủ yếu ở tinh thần vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, chậm phát triển. Mặc dù công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước hiện nay chính là khơi dậy ý thức lao động hăng say, sáng tạo, nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân Việt Nam; nhất là sự cố gắng phấn đấu của thanh niên nước nhà trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập thân, lập nghiệp.

Hai là, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì Tổ quốc của mọi người dân Việt Nam.

Đảng, Nhà nước cần chủ động tạo lập các yếu tố, điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để khơi dậy và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước ở mỗi người dân Việt Nam. Phải “xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”[19].

Cần mở rộng dân chủ trong Đảng và toàn xã hội, coi trọng “ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[20]. Phát huy tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia vào các công việc chung của đất nước theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo lập và phát huy sức mạnh đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện cải cách mang tính đột phá về thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm gắn kết chặt chẽ với tầm nhìn chiến lược phát triển dài hạn. Đảm bảo kết hợp giữa quản lý, kiểm soát bằng các quyết định hành chính với quản trị hiện đại, phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; xây dựng và thực thi có hiệu quả các cơ chế, chính sách chuyển đổi sang mô hình phát triển theo chiều sâu, thúc đẩy khởi nghiệp dựa trên cơ sở đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến.

Tạo lập môi trường, chính sách thuận lợi, minh bạch bảo đảm phát triển văn hóa, con người, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chính sách an sinh xã hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội; chính sách việc làm, chính sách tiền lương, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng; chính sách xóa nghèo bền vững; giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong khơi dậy khát vọng phát triển đất nước

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định việc thực hiện thắng lợi khát vọng, mục tiêu, tầm nhìn phát triển đất nước trong thời gian tới. Do vậy, phải “xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[21]; “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[22]; phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong các phong trào hành động cách mạng, phát triển kinh tế - xã hội, vươn lên làm giàu chính đáng. Đảng ta cần nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn đất nước, xu thế thời đại để hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, “dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm, có khát vọng phát triển”. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Xây dựng, hoàn thiện “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo”[23], bảo đảm đồng bộ cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương; nêu cao sứ mệnh phục vụ nhân dân; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tăng cường kiểm soát quyền lực Nhà nước, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Các cơ quan nhà nước cần ban hành hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.

Tích cực đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, thực chất nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân theo hướng thiết thực, hướng về cơ sở, chú ý những nhân tố mới, những cách làm sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội; hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp dân, đối thoại; giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân ngay từ cơ sở. Đấu tranh với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu đối với nhân dân.

Tóm lại, “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là chủ trương đúng đắn, khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết phục, sống động để phản bác các luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trong hành trình vĩ đại của dân tộc tiến lên giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phấn đấu không mệt mỏi, bền gan vững chí, vượt qua mọi khó khăn thử thách, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, tầm nhìn phát triển mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã hoạch định, đúng như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng chính đáng ngàn đời của toàn dân tộc./.


[1] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 580.

[2] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 228.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 38-39.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 131.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 104.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 60-61.

[7] Hà Anh, Tập trung cho hạ tầng, nhân lực và các yếu tố xã hội nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/01/2021.

[8] Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 116. 

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 19.

[10] Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XII của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16/5/2019.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 36.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 218 - 220.

[13] Tổng Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2021, Hà Nội, 2021.

[14] Tổng Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022, Hà Nội, 2022.

[15] Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển KTXH và NSNN năm 2024, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, ngày 16/1/2024.

[16] Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Chính phủ với địa phương, Báo điện tử Chính phủ, ngày 28/12/2020.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 47.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 168.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 47.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 173.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 180.

[22] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 612.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 174.

TS Phan Văn Lương, Tổng cục Chính trị
TS Khúc Văn Hưởng, Trường Sĩ quan Chính trị

Đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng


(ĐCSVN) - Càng gần đến những ngày lễ lớn và những sự kiện lịch sử của năm 2024, các thế lực thù địch chống đối chính trị càng tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là trên không gian mạng. Đây là một trong những nhân tố có thể tạo ra nguy cơ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo các tầng lớp Nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh chống thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc, dân chủ cho Nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, đó là nhận định không chỉ của Đảng, Nhân dân ta mà còn là của bè bạn quốc tế.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, từ khi ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị tinh thần của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Cần khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng cùng tham gia lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng nhất, chân chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 94 năm qua đã chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.

Thực tế đã minh chứng, trải qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; năm 2008 ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống Nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống, nhất là về ăn ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống.

Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực và ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nêu rõ: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, điều đó càng chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là bất biến, không thể có một thế lực nào thay thế được Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thế nhưng, đã trở thành thông lệ, lợi dụng những sự kiện quan trọng của đất nước như: Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2024), Tết Nguyên đán Giáp Thìn, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024)…, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chống đối, cơ hội chính trị lại diễn ra dưới nhiều hình thức như: soạn thảo tài liệu mạo danh, nặc danh, kiến nghị, thư trao đổi… nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận thành tựu phát triển của đất nước; thổi phồng những khuyết điểm, hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; từ đó quy kết, đổ lỗi nguyên nhân là do thể chế chính trị, nhằm gây sức ép đòi “đổi mới thể chế chính trị”… Mặt khác, chúng ra sức xuyên tạc, bịa đặt đời tư nhân cá nhân, nhằm bôi nhọ thanh danh, uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Càng gần đến những ngày lễ lớn và những sự kiện lịch sử của năm 2024, các thế lực thù địch chống đối chính trị càng tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là trên không gian mạng. Chúng xuyên tạc, phủ nhận Cương lĩnh, đường lối và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; hướng lái hệ thống pháp luật rập khuôn, máy móc với mô hình chính trị nước ngoài, xa lạ với thực tiễn Việt Nam, chủ yếu là mô hình tam quyền phân lập. Khi không đạt được mục đích, chúng lại quay sang hoạt động tuyên truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây là một trong những nhân tố có thể tạo ra nguy cơ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn. Theo đó, để bảo vệ vững chắc Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, chúng ta cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:

Một là, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, tính tiên phong của Đảng; kiên quyết, kiên trì, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong bất kỳ hoàn cảnh nào; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đồng thời đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, bảo đảm cho Đảng ta đủ sức lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Tuyệt đối không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư tưởng chính trị đòi đa nguyên, đa đảng.

Hai là, chủ động phát hiện kịp thời những phần tử cơ hội trong bộ máy Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang; xử lý nghiêm minh theo pháp luật đối với các hoạt động chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, không để các thế lực thù địch tạo dựng ngọn cờ tập hợp được lực lượng. Tăng cường quản lý hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình, Internet, mạng xã hội… Không để xảy ra sơ hở để bên ngoài có thể lợi dụng xâm nhập, thu thập bí mật, xuyên tạc phủ nhận truyền bá quan điểm tư tưởng thù địch và kích động phá hoại. Đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh, vô hiệu hóa các trang mạng xã hội có nội dung xấu, độc; tăng cường giáo dục đối thoại với những người có quan điểm sai trái, ngăn chặn sự tác động của bọn phản động bên ngoài, không đẩy họ vào thế đối địch, đồng thời kiên quyết xử lý những trường hợp đã diễn biến từ ta sang địch.

Ba là, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội - dân chủ, chủ nghĩa thực dụng. Kiên quyết bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, đặc biệt là mục tiêu, lý tưởng, con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn; phát triển đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động, mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa; có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các thành tố trong hệ thống chính trị và Nhân dân.

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống những luận điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng để có luận chứng bác bỏ có sức thuyết phục từng luận điểm. Trên cơ sở đó, huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng hợp thành trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, tiến hành phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch, với các luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước trong công tác xây dựng Đảng, trong quản lý kinh tế - xã hội nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn, vĩ đại và vinh quang, nhưng cũng cực kỳ khó khăn, gian khổ. Chúng ta khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng ta - một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của Nhân dân, là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng./. 

Thượng tá, ThS Vương Đức Thương (Học viện Chính trị)

Nguyễn Lương Bằng - người Cộng sản kiên trung, mẫu mực

 

(ĐCSVN) - Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Lương Bằng (02/4/1904 - 02/4/2024) là dịp để toàn thể cán bộ, đảng viên, Nhân dân thể hiện sự tri ân, tôn vinh người chiến sĩ cộng sản xuất sắc, nhà lãnh đạo tài năng tận tụy cống hiến hy sinh hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.

Trong khuôn khổ bài viết này tập trung làm rõ những cống hiến thể hiện tài năng, phẩm chất cao quý của người cộng sản kiên trung mẫu mực Nguyễn Lương Bằng trên các cương vị lãnh đạo, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc ta.

Đặt vào từng hoàn cảnh lịch sử mới hiểu rõ vai trò tiên phong và tài năng của đồng chí Nguyễn Lương Bằng trong tổ chức xây dựng Đảng và Nhà nước. Đó là từ giai đoạn hết sức khó khăn, phức tạp của quá trình vận động cách mạng khi Đảng ta chưa ra đời (trước năm 1930), trong bối cảnh sự đàn áp khắc nghiệt của chế độ thực dân, phong kiến đối với cách mạng nước ta (trước năm 1945), những gian nan của công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chống “thù trong giặc ngoài” (1945 -1946), trước những khó khăn, khốc liệt của hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và sự phức tạp của quan hệ quốc tế (1947 - 1975)…

Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - người chiến sĩ Cộng sản tiên phong trong công tác tư tưởng và tổ chức thời kỳ đầu của cách mạng Việt Nam.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở thôn Ðông, nay thuộc xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương; lớn lên trong bối cảnh đất nước bị thống trị, Nhân dân phải sống cực khổ, lầm than, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã sớm có tinh thần yêu nước, thương dân, lòng căm thù thực dân xâm lược, nuôi ý chí phá bỏ ách thống trị bóc lột của thực dân, phong kiến. Khi được gặp Nguyễn Ái Quốc, được tiếp cận con đường cứu nước của Người, người thanh niên Nguyễn Lương Bằng đã nhanh chóng trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, một lòng một dạ hy sinh cho sự nghiệp cách mạng đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân.

 Đồng chí Nguyễn Lương Bằng thăm quê hương Thanh Miện năm 1976 (Ảnh: huyendakglei.kontum.gov.vn)

Ngay từ những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, được chứng kiến và tham gia các phong trào yêu nước, được tuyên truyền, giác ngộ, Nguyễn Lương Bằng đã được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu, tháng 9/1926, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ về nước hoạt động để thiết lập hệ thống liên lạc, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và mở rộng phong trào cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí đã thể hiện vai trò là một trong những người tiên phong tổ chức thắng lợi việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, xây dựng thành công các cơ sở cách mạng của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng như thiết lập thành công hệ thống giao thông liên lạc trong nước với nước ngoài trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, trước sự truy lùng gắt gao của kẻ thù.

Theo chủ trương của tổ chức, đồng chí Nguyễn Lương Bằng tình nguyện đi vào phong trào “vô sản hóa”, nắm bắt thực tiễn, góp phần thúc đẩy sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta, đẩy nhanh quá trình vận động tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Ðồng chí là một trong những nhà lãnh đạo tiền bối góp phần xây dựng những nền tảng đầu tiên về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Ðảng, đi đầu truyền bá chủ nghĩa cộng sản khoa học ở nước ta thời dựng Đảng, là một cộng sự đắc lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh “trong việc xây dựng Đảng ta, giáo dục đảng viên, chăm lo sự vững vàng của Đảng về tư tưởng và tổ chức”.

Trong thời gian hoạt động cách mạng dưới chế độ thực dân, từ 1925 đến 1945, đồng chí Nguyễn Lương Bằng nhiều lần bị bắt, trải qua nhiều nhà tù thực dân hà khắc. Ðương đầu với những cuộc tra tấn dã man của bọn đế quốc, đồng chí không hề nao núng, rất mực trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Ðảng Cộng sản và giai cấp công nhân, luôn giữ vững khí tiết cách mạng.

Đúng như bí danh Sao Ðỏ - đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã trở thành một tấm gương sáng đối với những người cách mạng, còn kẻ thù thì khiếp sợ. Qua hơn 10 năm tù đày ở nhiều nhà tù, từng trải qua mọi thử thách của sự khủng bố, thiếu thốn, bệnh tật, đồng chí vẫn kiên trì hoạt động cách mạng, lãnh đạo và giáo dục các đồng chí của mình đấu tranh với kẻ thù và bọn phản bội. Đồng chí đã dũng cảm, mưu trí tổ chức vượt ngục hai lần thành công. Lần vượt ngục của đồng chí năm 1943 như một huyền thoại, thoát khỏi nhà tù Sơn La vượt qua những con đường chông gai cực kỳ nguy hiểm để trở về với Ðảng và Nhân dân, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng rất chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, đặc biệt coi trọng phương châm dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng, xem đó là phương châm công tác của mình để phát triển lực lượng cũng như các phong trào cách mạng. Đồng chí cho rằng, nếu không dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng sẽ dẫn đến tình trạng “lỏng chân đứng”. Vì vậy, đồng chí ra sức tổ chức, xây dựng các tổ chức, đoàn thể quần chúng, lấy đó làm bàn đạp để xây dựng Đảng. Quan điểm của đồng chí là các tổ chức, đoàn thể quần chúng lớn mạnh, phát triển rộng rãi, thì Đảng cũng sẽ lớn mạnh, phát triển rộng rãi. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đồng thời, cũng là sự nghiệp của Đảng, khi kết hợp hai yếu tố đó sẽ tạo nên sức mạnh của Đảng và bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - nhà lãnh đạo tài năng, gương mẫu.

Tháng 8/1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang (từ ngày 14 - 15/8), đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (ngày 16 - 17/8) đã bầu Đồng chí vào Ban Thường trực Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam. Là thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã cùng các đồng chí lãnh đạo của Ðảng và của Tổng bộ Việt Minh tổ chức cuộc đấu tranh của Nhân dân ta trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn chống ách áp bức của hai đế quốc Pháp, Nhật, đối phó với những cuộc khủng bố điên cuồng, đẩy tới cao trào cứu nước. Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng, đồng chí đã tham gia lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám và là người tham gia sáng lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước cách mạng đầu tiên trong lịch sử dân tộc, tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là người học trò, đồng chí gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Ðảng, giáo dục đảng viên, chăm lo sự vững vàng của Ðảng về tư tưởng và tổ chức, nhân tố bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Quá trình hoạt động và cống hiến cho cách mạng của đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX: thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng nói chuyện thân mật với cử tri sau khi bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu số 1, khu phố Hai Bà Trưng, khu vực bầu cử số 3, thành phố Hà Nội, ngày 25/4/197 (Ảnh: TTXVN) 

Một trong những nhiệm vụ góp phần thực hiện thành công đường lối kháng chiến của Đảng, tăng cường lực lượng của ta, từng bước làm chuyển hóa tương quan lực lượng giữa ta và địch là công tác lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng. Nhiệm vụ quan trọng đó được Đảng trao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng phụ trách, nhất là từ lúc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đến lúc toàn quốc kháng chiến. Năm 1947, sau khi các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ di chuyển lên chiến khu Việt Bắc, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được cử phụ trách công tác kinh tế, tài chính của Đảng, giữ chức Trưởng Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương. Với những đóng góp xuất sắc trong quá trình hoạt động cách mạng nói chung và trong chỉ đạo công tác kinh tế - tài chính của Đảng nói riêng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã bầu đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1951 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), đồng chí được bổ nhiệm Tổng Giám đốc đầu tiên.

Nhận nhiệm vụ Trưởng ban Kinh tế - Tài chính Trung ương, rồi Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đồng chí Nguyễn Lương Bằng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, đã chỉ đạo thực hiện nhiều quyết sách hiệu quả, tăng cường tiềm lực quan trọng cho các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm phụ trách công tác kinh tế, tài chính của Đảng, Đồng chí đã đề xuất, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách đúng đắn và sáng tạo về kinh tế, tài chính; xây dựng những cơ sở sản xuất, kinh doanh của tài chính Đảng, góp phần quan trọng vào việc ổn định nền kinh tế nước nhà; bảo đảm khối lượng tài lực to lớn đáp ứng nhu cầu lãnh đạo và hoạt động của Đảng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đến thắng lợi. Đồng chí cũng là người chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tài chính có phẩm chất và năng lực, đóng góp những cán bộ cốt cán cho các ngành kinh tế và tài chính của Nhà nước. Đảng ta đánh giá: “Đồng chí đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng nền tài chính của nước ta và tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp”.

Trên cương vị Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Liên Xô và phụ trách cả Đông Âu, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã tiến hành các hoạt động hoàn thành các mục tiêu đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa khác, đoàn kết với giai cấp công nhân và Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cùng chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, với tài năng và trí tuệ của mình, đồng chí đã tiến hành nhiều hoạt động tăng cường quan hệ tốt đẹp với sứ quán các nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và các tổ chức quốc tế, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ vì hòa bình, dân chủ của Nhân dân tiến bộ trên thế giới, phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp, ủng hộ cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam.

Năm 1956, trước yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao vừa đảm đương nhiệm vụ Trưởng ban Kiểm tra Trung ương của Đảng kiêm chức Tổng Thanh tra của Chính phủ, Đồng chí đã luôn thể hiện được tài năng lãnh đạo và sự trung thành với lợi ích của Đảng và Nhân dân, tính gương mẫu và cái tâm trong sáng của người Cộng sản. Đồng chí khẳng định: “Trong công tác xây dựng Đảng có ba công tác quan trọng là công tác tư tưởng, tổ chức và kiểm tra. Nếu thiếu một trong ba công tác này sẽ ảnh hưởng không tốt đến công tác xây dựng Đảng”.

Theo đồng chí, công tác kiểm tra phải nắm vững phương châm thi hành kỷ luật của Đảng trước hết là nhằm giáo dục đảng viên không tái phạm sai lầm và việc áp dụng một hình thức kỷ luật nào cũng là nhằm giáo dục để mở đường cho đảng viên sửa chữa sai lầm; đồng thời để phòng ngừa, ngăn ngừa sai phạm; phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng. Đồng chí chỉ rõ: “Bản thân công tác kiểm tra của Đảng có mục đích bảo đảm sự đoàn kết nhất trí trong Đảng; bảo đảm chấp hành mọi đường lối, chính sách của Đảng”; “Công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ tìm ra những sai lầm trong thực hiện chủ trương, đường lối và chính sách, mà còn tìm ra những thiếu sót, sai lầm trong bản thân các nghị quyết, chỉ thị, chính sách để kịp thời bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Qua công tác kiểm tra, có thể thấy được tinh thần, năng lực của đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó có chính sách cán bộ đúng đắn từ bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm… và xử lý những cán bộ có sai phạm, những cán bộ thoái hóa, biến chất”. Bởi vậy, công tác kiểm tra, thanh tra có tác dụng to lớn trong việc củng cố Đảng, củng cố chính quyền, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Khi ở cương vị là Phó Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Lương Bằng là cộng sự tin cậy của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, kế tục sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh - chiến đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Trong những tháng ngày căng thẳng của năm 1972, khi đế quốc Mỹ trở lại leo thang đánh phá ác liệt bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc lần thứ hai, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước kiên quyết chỉ đạo quân, dân miền Bắc quyết tâm đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ định ép Việt Nam phải chấp nhận những điều khoản do chúng đặt ra tại bàn đàm phán ở Hội nghị Pari. Đồng thời, đồng chí trực tiếp đến những nơi bị bom đạn Mỹ tàn phá để thăm hỏi, động viên đồng bào, chiến sĩ.

Trong phạm vi công việc được phân công phụ trách, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng rất quan tâm đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, cách thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền và nhất là đời sống Nhân dân các địa phương. Sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, đồng chí đã đến thăm và làm việc tại một loạt địa phương, thăm hỏi, động viên đồng bào, chiến sĩ khắc phục khó khăn, tranh thủ điều kiện hòa bình ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất, làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thành công của đồng chí Nguyễn Lương Bằng trong thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng giao phó gắn liền với phương pháp hoạt động, đồng thời thể hiện bản lĩnh của một nhà lãnh đạo luôn đặt lợi ích của dân tộc, của Đảng lên trên hết. Trước sự phức tạp, phong phú, sinh động của cuộc sống, để giải quyết một vấn đề thực tiễn đặt ra hoặc vấn đề chiến lược của Đảng, Đồng chí luôn kiên nhẫn thực hiện những phương pháp vừa bảo đảm nguyên tắc vừa có sự hài hòa trong quan hệ công tác. Phương pháp lãnh đạo đó không chỉ góp phần hình thành những chỉ thị, nghị quyết sát hợp thực tiễn, mà còn góp phần quan trọng tăng cường xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân.

Ðánh giá về đồng chí Nguyễn Lương Bằng, đồng chí Ðỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã khẳng định: “Anh Nguyễn Lương Bằng, anh cả quý mến của chúng ta đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc. Anh cả là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất, về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tác phong cần cù, giản dị; là người lãnh đạo, người đồng chí được toàn Ðảng, toàn dân yêu mến, cảm phục”. Cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú và những cống hiến xuất sắc của các lớp cán bộ cách mạng tiền bối, trong đó có đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã viết nên những trang sử hết sức vẻ vang của cách mạng Việt Nam, khai mở con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa Nhân dân ta trên con đường xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, phồn vinh.

Hiện nay, công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và tình trạng chậm phát triển, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội, quốc phòng - an ninh được củng cố, đối ngoại được mở rộng... đem lại thế và lực mới cho đất nước. Trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực... tiếp tục đặt ra những thách thức lớn đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Lương Bằng (02/4/1904 - 02/4/2024) là dịp để toàn thể cán bộ, đảng viên, Nhân dân thể hiện sự tri ân, tôn vinh người chiến sĩ cộng sản xuất sắc, nhà lãnh đạo tài năng tận tụy cống hiến hy sinh hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Đây cũng là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, noi gương học tập đồng chí Nguyễn Lương Bằng, phát huy vai trò tiên phong, nêu gương thực hành đạo đức cách mạng, tận tụy cống hiến, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, sáng tạo đổi mới, nỗ lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XIII của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Nguyễn Thị Ánh