Social Icons

Pages

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

Nghiên cứu lý luận chính trị góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 (ĐCSVN) - Những năm qua, đặc biệt từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã quán triệt, xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo và tổ chức thực hiện phù hợp, trong đó đã thể hiện rõ vai trò của nghiên cứu lý luận chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự là cơ quan nghiên cứu khoa học đa ngành có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết, phát triển và ứng dụng tri thức khoa học xã hội nhân văn vào lĩnh vực quân sự. Những năm qua, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã chủ động đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận chính trị. Qua đó, trực tiếp góp phần quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Cụ thể, công tác nghiên cứu lý luận chính trị ở Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã góp phần tổng kết, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ được giao, hằng năm, Viện đã tổ chức nghiên cứu khoa học chặt chẽ, tuân thủ các nguyên tắc lãnh đạo, chỉ huy và quản lý tập trung, thống nhất của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng Cục Chính trị và Học viện Chính trị; triển khai đồng bộ nhiệm vụ nghiên cứu khoa học với nhiều loại hình nghiên cứu, cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng; cả nghiên cứu lý luận chính trị, cả tổng kết thực tiễn với nhiều loại hình và quy mô đề tài khác nhau, nhiều chuyên đề khoa học, hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt học thuật, biên soạn sách, viết báo, tạp chí và thực hiện nhiều nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết lý luận do Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Học viện Chính trị giao. Trong đó, đã tâp trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới.

Đặc biệt, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã có đóng góp quan trọng vào việc tổng kết công tác lý luận trong thời kỳ đổi mới; tổng kết nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; tổng kết quan điểm lý luận bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam và 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; nghiên cứu, tổng kết đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam; tiếp tục nghiên cứu kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng.

Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu lý luận chính trị của Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự còn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước, Quân đội hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị trong tình hình mới.

Hội thảo đề cương chi tiết xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh nhuệ về chính trị trong tình hình mới do Viện Khoa học xã hội  và Nhân văn Quân sự chủ trì thực hiện. (Ảnh: Ngọc Tân). 

Viện đã triển khai đồng bộ nhiệm vụ nghiên cứu khoa học với nhiều loại hình nghiên cứu, trong đó nghiên cứu lý luận chính trị của Viện được đẩy mạnh. Tập trung nghiên cứu tổng kết quá trình hình thành, phát triển chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, qua đó đóng góp quan trọng vào việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; góp phần phát triển khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đóng góp quan trọng vào việc bổ sung và phát triển lý luận bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh nhuệ về chính trị trong điều kiện mới.

Với kết quả nghiên cứu lý luận nói chung và nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng, Viện đã tham mưu, đề xuất và trực tiếp nghiên cứu nhiều vấn đề mới đặt ra trong bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Các công trình nghiên cứu của Viện đã cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách quốc phòng, quân sự Việt Nam, góp phần phát triển và từng bước hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị trong thời kỳ mới.

Đặc biệt, công tác nghiên cứu lý luận chính trị của Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự cũng góp phần cung cấp luận cứ, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng.

Là một trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của quân đội, Viện đã tích cực, chủ động thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với nhiều cách thức, phương pháp hiệu quả. Trong đó, coi trọng nghiên cứu lý luận chính trị, tổng kết thực tiễn, góp phần nhận diện rõ hơn, đầy đủ hơn về các thế lực thù địch, đề xuất đúng, trúng các nội dung, hình thức, biện pháp đấu tranh. Thông qua đề tài khoa học, sách, hội thảo, các bài báo, bài viết chính luận đấu tranh có tính lý luận và thực tiễn cao, giàu tính thuyết phục, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phân tích, nêu bật giá trị, sức sống, khả năng tiếp thu và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Làm rõ bản chất cách mạng, khoa học của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng thuận và nhất trí cao trong quán triệt, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, chính sách vào cuộc sống. Phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Vạch mặt những thủ đoạn lợi dụng dân chủ, núp bóng “phản biện” bóp méo các chủ trương, chính sách trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, quốc phòng - an ninh, đối ngoại gây sự phân tâm, giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Đây có thể coi là những điểm mấu chốt của đổi mới, nâng cao chất lượng đấu tranh tư tưởng, lý luận ở Viện trong tình hình mới.

Hiện nay, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định rõ yêu cầu: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (1). Quán triệt sâu sắc quan điểm nói trên, để phát huy vai trò nghiên cứu lý luận chính trị ở Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng nghiên cứu lý luận chính trị ở Viện. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu; mà nội dung chủ yếu là phải thường xuyên quán triệt đầy đủ, sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên về nghiên cứu khoa học và nghiên cứu lý luận chính trị; cấp ủy, chỉ huy các cấp phải coi trọng việc quán triệt, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ đảng viên, cán bộ nghiên cứu; tăng cường hội thảo, tọa đàm, trao đổi nâng cao nhận thức, trách nhiệm về nghiên cứu lý luận chính trị ở Viện.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý của người chỉ huy các cấp đối với nghiên cứu lý luận chính trị, làm cho hoạt động này luôn được lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, bảo đảm tính khoa học và giữ vững định hướng chính trị trong nghiên cứu. Cùng với tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Chính trị, phải bảo đảm sự lãnh đạo thường xuyên, trực tiếp của Đảng ủy, quản lý của Chỉ huy Viện; phát huy vai trò của các chi bộ, chi ủy các ban nghiên cứu; xây dựng Viện, các ban vững mạnh toàn diện, ngang tầm, đủ sức lãnh đạo hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ nghiên cứu lý luận chính trị. Nhận thức được tầm quan trọng của cán bộ nghiên cứu khoa học, trong thời gian tới, Đảng ủy, Chỉ huy Viện sẽ tập trung vào tuyển chọn, tạo nguồn, quy hoạch cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị; đồng thời yêu cầu phải bồi dưỡng nâng cao tri thức, trình độ, đúc rút phương pháp, qua thực tiễn triển khai các công trình, đề tài nghiên cứu lý luận chính trị; làm tốt công tác quản lý, đánh giá, luân chuyển, bố trí, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị; coi trọng phát huy tính chủ động, tự giác của đội ngũ cán bộ, phấn đấu, tu dưỡng, học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực, phong cách công tác.

Bốn là, xác định chính xác các nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp nghiên cứu lý luận chính trị. Đây là một trong những yêu cầu rất cao nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu lý luận chính trị của Viện trong thời gian tới. Trong đó, cần tập trung xác định những vấn đề lý luận quan trọng đã được vận dụng và đang nảy sinh đặt ra, đón trước các vấn đề cần nghiên cứu tổng kết trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; những vấn đề về giữ vững bản chất chính trị của Quân đội, nguyên tắc lãnh đạo và tổ chức quân đội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Đồng thời, phải coi trọng vận dung phương pháp nghiên cứu lý luận chính trị, thực hiện đa dạng các loại hình, cấp độ nghiên cứu, làm cho hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị của Viện ngày càng đi vào chiều sâu, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao./.

Tài liệu tham khảo:

(1). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 183.

Ths Phạm Chí Thịnh - Ths Phạm Hồng Hải

Khẳng định vai trò quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

(ĐCSVN) - Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ IV - năm 2024 được tổ chức nhằm tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Phong trao tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Thành ủy cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong triển khai cuộc thi năm 2023. 

Thành ủy Hà Nội vừa công bố Kế hoạch tổ chức Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ IV - năm 2024.

Cuộc thi được tổ chức nhằm tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng, của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Cuộc thi cũng nhằm tiếp tục phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng cho các lực lượng, hình thành mạng lưới rộng khắp bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ. Qua đó, Cuộc thi lựa chọn những tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu để tuyên truyền, lan tỏa rộng rãi trong hệ thống chính trị và xã hội.

Đồng thời, cuộc thi sẽ nâng cao chất lượng các tác phẩm chính luận trên báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình và mạng xã hội về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; góp phần bảo vệ, tuyên truyền, lan tỏa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phục vụ tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới đất nước và xây dựng dự thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; hình thành nguồn sản phẩm phong phú, có chất lượng, có tính chiến đấu cao phục vụ trực tiếp công tác tuyên truyền của các cơ quan, đơn vị, địa phương, “phủ xanh” thông tin tích cực, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội và sự ủng hộ của đông đảo bạn bè quốc tế. Qua đó, Cuộc thi lựa chọn những tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu để tuyên truyền, lan tỏa rộng rãi trong hệ thống chính trị và xã hội.

Thành ủy Hà Nội giao Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội và Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 35 thành phố là cơ quan chủ trì, thường trực cuộc thi; đồng thời phối hợp với Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Báo Hà Nội mới, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, Hội Nhà báo thành phố Hà Nội.

Đối tượng dự thi là tác giả, nhóm tác giả người Việt Nam, người nước ngoài sinh sống và làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội có tác phẩm chính luận phù hợp với tiêu chí của cuộc thi. Cuộc thi khuyến khích sự tham gia của Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong; Trung tâm chính trị các quận, huyện, thị xã; giảng viên, học viên, sinh viên các trường Đại học, Học viện, Cao đẳng... trên địa bàn thành phố; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động của các sở, ban, ngành, đoàn thể; sĩ quan, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thành phố; thành viên, đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên của Ban Chỉ đạo 35 các cấp; cán bộ, phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên các cơ quan báo chí, truyền thông của thành phố Hà Nội; đoàn viên, thanh niên của các tổ chức Đoàn thanh niên ở Hà Nội.

Các tác phẩm dự thi là tác phẩm chính luận bằng tiếng Việt (tiếng dân tộc hoặc tiếng nước ngoài được dịch ra tiếng Việt), thuộc một trong các loại hình như: Tạp chí (in hoặc điện tử), báo (in hoặc điện tử), phát thanh/truyền hình/video clip, bảo đảm quy định về hình thức nêu tại thể lệ Cuộc thi.

Tác phẩm dự thi là tác phẩm sáng tạo lần đầu, chưa được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội trước thời điểm phát động Cuộc thi. Chủ đề tác phẩm tập trung vào những vấn đề cơ bản, trọng tâm, những vấn đề nổi lên trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

Chủ đề, nội dung, tác phẩm dự thi bảo đảm tính khoa học, tính Đảng, tính chiến đấu, định hướng, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, có phát hiện mới; khuyến khích các tác phẩm bảo vệ những nguyên lý cơ bản, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; đề xuất, bổ sung, phát triển lý luận, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật; những sản phẩm “bút chiến” phản bác trực diện, vạch trần tính chất phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Ban Tổ chức nhận tác phẩm dự thi từ khi phát động Cuộc thi (từ đầu tháng 3/2024) cho đến hết ngày 31/5/2024 (tính theo dấu bưu điện).

Lễ tổng kết, trao giải Cuộc thi cấp thành phố dự kiến sẽ được tổ chức vào tháng 8/2024 nhân dịp sơ kết 6 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 35 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”./.

Tin, ảnh: Phạm Cường

Bài cuối: Hành động trách nhiệm và tiếng nói lương tri vì sự bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc

 (ĐCSVN) - Tôn giáo và đất đai là những vấn đề mà các thế lực thù địch đang lợi dụng để xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Âm mưu này của chúng sẽ thất bại, bởi Việt Nam đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và giải quyết vấn đề về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).

Tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo đảm

Theo báo cáo của Uỷ ban Dân tộc, hiện nay, ở Việt Nam, tỷ lệ đồng bào DTTS theo các tôn giáo là 16,6%. Từ 2015 - 2019, số chức sắc tôn giáo là người DTTS và số cơ sở sinh hoạt tôn giáo đã tăng lần lượt từ 8.080 người và 4.630 cơ sở lên 12.586 người và 10.239 cơ sở.

Chính sách của Việt Nam đã đem lại sự thay đổi căn bản trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người DTTS, cụ thể là:

Thứ nhất, bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo: Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo chung sống hòa hợp trong cộng đồng các dân tộc. Ở Việt Nam không có xung đột tôn giáo. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không có sự kỳ thị về tín ngưỡng, tôn giáo giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau hay không có tín ngưỡng, tôn giáo; giữa người DTTS theo tôn giáo và người Kinh theo tôn giáo.

Thứ hai, sinh hoạt tôn giáo tập trung: trên nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, các địa phương ở Tây Nguyên, Tây Bắc đã tạo điều kiện cho các điểm, nhóm Tin lành được đăng ký sinh hoạt tập trung. Ở Tây Nguyên, hiện có khoảng 500.000 tín đồ đạo Tin lành (90% là người DTTS) đang sinh hoạt tại gần 400 chi hội và hơn 1.600 điểm nhóm. Miền núi phía Bắc có khoảng 250.000 tín đồ đạo Tin lành (95% là người DTTS, chủ yếu là đồng bào Mông), đang sinh hoạt tại 14 chi hội và hơn 1.600 điểm nhóm, trong đó chính quyền địa phương đã cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung hơn 900 điểm nhóm.

 Các lớp học chữ dân tộc Chăm thường xuyên được mở cho con em dân tộc Chăm trong các thánh đường Hồi giáo ở An Giang - ảnh: Hồng Phượng

Thứ ba, về đào tạo: Các tổ chức tôn giáo được phép thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo để đáp ứng nhu cầu của tổ chức tôn giáo. Hiện nay, ở Việt Nam có trên 60 cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành lập Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer tại TP. Cần Thơ. Đến nay, Học viện đã đào tạo được 03 khóa với gần 100 tăng sinh tốt nghiệp cử nhân Phật học và đang đào tạo khóa IV, khóa V với 31 tăng sinh theo học.

Tại Trường Thánh kinh Thần học Hà Nội có 64 sinh viên là người Mông, Dao, Sán Chỉ… Chính quyền các địa phương tạo điều kiện cho các Hội thánh Tin lành có tư cách pháp nhân tổ chức nhiều chương trình bồi dưỡng thần học, bồi linh cho chức sắc, chức việc. Từ năm 2015 đến nay, hơn 1.600 lượt người được học các lớp bồi dưỡng thần học, 2.400 chức sắc, chức việc được bồi dưỡng bồi linh tại khu vực miền núi phía Bắc; hơn 1.300 lượt người được tham gia bồi dưỡng, đào tạo làm chức sắc tại khu vực Tây Nguyên.

Thứ tư, xuất bản kinh sách: Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách và đồ dùng việc đạo. Từ năm 2013 đến nay, hơn 5.500 ấn phẩm tôn giáo được xuất bản, trong đó có khoảng hơn 17 triệu bản in và hơn một triệu đĩa MP3, VCD, CD, DVD, ảnh, lịch, cờ.... Nhiều ấn phẩm tôn giáo được xuất bản bằng tiếng Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na… 82 đầu sách Phật giáo được in bằng chữ Khmer. Nhà nước cho phép nhập 473 bộ Đại Tạng Kinh, 96 đầu Kinh sách bằng chữ Khmer từ Campuchia về sử dụng tại các chùa.

Thứ năm, các tín đồ tôn giáo người DTTS được tạo điều kiện tham gia hoạt động quốc tế. Hiện có nhiều chư tăng Phật giáo Nam tông Khmer đang học cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Phật học tại Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Srilanka, Ấn Độ; nhiều tín đồ Hồi giáo người Chăm được tham gia các cuộc thi đọc Kinh Qu’ran quốc tế tại Thái Lan, Brunei, Malaysia, Indonesia, các hội nghị, hội thảo quốc tế về Hồi giáo, du học giáo lý tại các nước Hồi giáo…

Sửa Luật Đất đai để đảm bảo quyền cho người DTTS

Hiện nay, sinh kế chủ yếu của đồng bào DTTS là sản xuất nông, lâm nghiệp. Tỷ trọng lao động có việc làm trong nông, lâm nghiệp là 72,3%, cao gần gấp đôi so với bình quân chung cả nước (44%).

Những năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định về chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS. Nổi bật là Quyết định số 755/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 phê duyệt chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2017 - 2020…

Tại Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, Bộ Chính trị yêu cầu: “Tập trung giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt và tranh chấp, khiếu kiện về đất đai” và “Đến năm 2025, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở cho đồng bào”.

Thực hiện Kết luận số 65-KL/TW, ngày 18/11/2019, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 88 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Nghị quyết đặt ra mục tiêu đến năm 2025: “Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào”.

Ngày 19/6/2020, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 120 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, làm căn cứ để Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ 2021 – 2025. Trong đó đặt mục tiêu đến năm 2025, hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất cho hơn 47.200 hộ.

Ngày 16/6/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Nghị quyết 18) về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao". Nghị quyết yêu cầu: “hoàn thành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất” và đến năm 2025, giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến đất sản xuất cho đồng bào DTTS.

 Ngày 18/01/2024, tại phiên họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khoá XV đã biểu quyết thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) - ảnh: quochoi.vn

Trong các ngày từ 15 - 18/01/2024, Quốc hội đã triệu tập Kỳ họp thứ 5 (bất thường) để để xem xét, quyết định một số vấn đề như Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh là: “có ý nghĩa căn cơ, chiến lược, lâu dài”, trong đó có việc thông qua dự án Luật Đất đai (sửa đổi), hoàn thành một trong những nhiệm vụ lập pháp quan trọng của nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV.

Trong Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định các chính sách bảo đảm đất sinh hoạt cộng đồng; giao đất, cho thuê đất đối với đồng bào DTTS thiếu đất ở, đất sản xuất; đảm bảo quỹ đất để thực hiện chính sách đất đai đối với đồng bào DTTS; Quy định hạn chế một số quyền của người sử dụng đất đối với các trường hợp được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo chính sách hỗ trợ đất đai đối với đồng bào DTTS. Đây là những đột phá của Luật mà người thụ hưởng chính sách chính là đồng bào DTTS trên cả nước.

Những tiếng nói của lương tri

Từ vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu ở xã đặc biệt khó khăn Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, ông Giàng A Châu - người có uy tín trong đồng bào dân tộc Mông nơi đây khẳng định, xã được đầu tư xây dựng trạm y tế, trường học đạt chuẩn, đường giao thông được nhựa hoá tạo điều kiện cho bà con phát triển kinh tế, giao thương, đi lại thuận lợi. Đồng bào đang có cuộc sống ngày càng hạnh phúc hơn nhờ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Mục sư Blick ở nhà thờ Tin lành Plêi Mơ Nú, thành phố Plêiku cho biết, xã, phường tạo điều kiện cho giáo dân sinh hoạt rất thoải mái, tự do. Bà con rất mừng, cảm nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền rất tốt.

Theo Sãi cả Chau Khi - Trụ trì chùa Tà Ngáo của đồng bào Khmer xã An Phú, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cấp ủy, chính quyền địa phương thường xuyên tiến hành các hoạt động đảm bảo an sinh xã hội, giúp hộ nghèo xây nhà, giúp gạo, đồ ăn… Chùa và bà con rất xúc động.

Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng.

Trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình Việt Nam, ông Surya Deva - Báo cáo viên đặc biệt Liên hợp quốc về quyền phát triển nhận xét: “Rõ ràng có rất nhiều thay đổi trong đời sống người DTTS Việt Nam. Các cấp chính quyền cũng rất nhanh chóng trong việc khắc phục những vấn đề liên quan. Có rất nhiều chương trình, dự án để đảm bảo không một người DTTS nào bị bỏ lại phía sau. Tôi tin Uỷ ban Công ước CERD sẽ ghi nhận những nỗ lực này của Việt Nam”[1]

ông Surya Deva - Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về quyền phát triển trong một buổi trao đổi, thảo luận thông tin và nắm bắt thông tin về nhân quyền tại Việt Nam (tháng 11 năm 2023) - ảnh: Phan Anh

Thực tế là kết thúc phiên đàm phán đối thoại bảo vệ Báo cáo CERD lần thứ 5 của Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Công ước CERD - Bà Shepherd Verene Albertha nói: “Chúng tôi đánh giá cao phần báo cáo và trả lời của đoàn. Chúng ta đã có cuộc đối thoại mang tính xây dựng với nhiều thông tin và số liệu''[2].

Tiếng nói của chính những người DTTS tại Việt Nam, của người có thẩm quyền ở cơ quan của Liên hợp quốc cùng kết quả hiện thực sinh động, thuyết phục trong thực hiện chính sách dân tộc đã chứng minh đường lối đúng đắn, sáng suốt của Đảng về vấn đề dân tộc; là luận cứ đanh thép, thuyết phục bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về vấn đề dân tộc; bác bỏ những luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch, hòng phủ nhận thành tựu, kích động, chia rẽ đại đoàn kết dân tộc, tạo sự bất ổn ở vùng DTTS và miền núi nước ta.

“Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[3]

Một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, và nhân dân ta lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi là các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đây là con đường đúng đắn nhất để giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc người như Việt Nam, nhằm đưa các dân tộc tiến lên, xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống mới “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

94 năm qua (1930 - 2024), kể cả trong thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc đầy gian khổ, thiếu thốn, nhưng các DTTS ở Việt Nam luôn một lòng tin và đi theo Đảng, Bác Hồ. Không dễ gì chỉ bằng các chiêu trò xuyên tạc, vu cáo mà các thế lực thù địch, phản động có thể kích động đồng bào phản bội lại lý tưởng cao đẹp của dân tộc. Trái lại, những hành động chống phá, những lời nói xảo biện, lừa bịp của các thế lực thù địch càng làm bộc lộ bản chất phản động của chúng, đồng thời càng làm cho đường lối, chính sách dân tộc của Đảng ta thêm toả sáng rực rỡ./.



[1] Xem Đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số, Chào buổi sáng VTV1 ngày 27/11/2023, truy cập ngày 18/1/2024

[2] Xem Nỗ lực đảm bảo quyền bình đẳng các dân tộchttps://vtv.vn/chinh-tri/no-luc-dam-bao-quyen-binh-dang-cac-dan-toc-20231201060425153.htm, truy cập ngày 18/1/2024

[3] Xem GS.TS Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Namhttps://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam, truy cập ngày 23/2/2024

Trần Quỳnh - Hải Yến