Social Icons

Pages

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

Bài 2: Việt Nam tích cực thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

 

(ĐCSVN) - Thừa nhận và đảm bảo quyền con người là một chỉ báo đánh giá sự phát triển văn minh, tiến bộ của mỗi xã hội, là cơ sở để Nhà nước ghi nhận và đảm bảo quyền cho người dân. Trên quan điểm đó, Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) và là thành viên tích cực thực hiện theo đúng các nội dung của Công ước này.

Bài 1: Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc

Ngày 19/12/2023, ngành Ngoại giao tổ chức Hội nghị lần thứ 32. Tới dự và phát biểu tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Có thể nói, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thuỷ chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị lần thứ 32 Ngành Ngoại giao Việt Nam (ngày 19/12/2023) - ảnh: PV

Nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là sự ghi nhận kết quả đạt được sau một quá trình bước ra hội nhập với sân chơi thế giới của Việt Nam. Về mặt đối ngoại, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã cố gắng hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của nước thành viên. Hiện nay, Liên hợp quốc có 24 công ước quốc tế liên quan đến quyền con người, trong đó có 9 công ước được coi là quan trọng và cơ bản nhất.

Việt Nam đã tham gia phê chuẩn và cam kết thực hiện 7/9 công ước có liên quan đến quyền con người, gồm: Công ước về quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Công ước về quyền của người khuyết tật, Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.

Trong Chương trình bình luận “Việt Nam bảo vệ quyền con người” (Thứ bảy ngày 10/12/2022, trên kênh VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam), PGS,TS Nguyễn Thị Thanh Hải - Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận xét, nếu so sánh cuối những năm 1980, thời kỳ bắt đầu công cuộc Đổi mới với hiện nay thì có thể thấy rất rõ sự phát triển trong cách tiếp cận, quan điểm của Việt Nam về quyền con người.

Nếu những năm đầu Đổi mới, quyền con người là vấn đề “nhạy cảm”, thậm chí là cấm kỵ thì hiện nay đã được thừa nhận rộng rãi trong quan điểm, trong hệ thống văn bản của Đảng, Nhà nước ta, là nội dung giảng dạy trong trường học. Từ chỗ quyền con người được tiếp cận thụ động, thậm chí mang tính chất đối phó với những phê phán, chỉ trích từ bên ngoài thì nay đã được coi là mục tiêu cốt lõi của quá trình phát triển của Việt Nam.

PGS,TS Nguyễn Thị Thanh Hải còn cho rằng, sự thừa nhận và đảm bảo quyền con người là một chỉ báo đánh giá sự phát triển văn minh, tiến bộ của mỗi xã hội, là cơ sở để Nhà nước ghi nhận và đảm bảo quyền cho người dân.

Trên quan điểm như vậy, trong các công ước quốc tế Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia có một công ước quan trọng, trực tiếp liên quan đến quan hệ giữa các dân tộc, đó là Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc.

Ra đời từ năm 1965, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) lên án nạn phân biệt chủng tộc và xác lập nghĩa vụ cho các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn các chính sách nhằm loại trừ các hình thức phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, dòng dõi, dân tộc hoặc gốc người thiểu số.

Việt Nam tham gia Công ước CERD từ năm 1982 và từ đó đến nay, luôn là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã và đang thực hiện nghiêm túc các nội dung của Công ước CERD; đồng thời thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy quyền của đồng bào dân tộc thiểu số.

Ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc khẳng định, tham gia Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Việt Nam có cơ hội giúp bạn bè quốc tế có cái nhìn đúng đắn, những đánh giá, nhận định khách quan về chủ trương, đường lối công tác dân tộc và những thành tựu đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc, đồng thời đón nhận những tri thức quốc tế để xem xét vận dụng vào quá trình hoạch định chính sách dân tộc phù hợp với thực tiễn của đất nước.

Song, tham gia Công ước cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ phù hợp với cơ chế Công ước như: Nội luật hoá các quy định, nguyên tắc về quyền của người dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, truyền thống lịch sử, văn hoá; đảm bảo tiến bộ thực sự về nhân quyền cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, chính kiến, nguồn gốc xuất thân…; định kỳ thực hiện Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện Công ước; thực hiện các khuyến nghị, trả lời kháng thư về quyền con người; triển khai các hoạt động giáo dục, thông tin về quyền con người và một số thủ tục khác theo yêu cầu của Uỷ ban Công ước CERD.

Việt Nam tham gia Công ước CERD từ năm 1982 và từ đó đến nay, luôn là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã và đang thực hiện nghiêm túc các nội dung của Công ước CERD 

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, vấn đề đảm bảo quyền con người của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam luôn không tách rời các hoạt động giám sát của các cơ quan của Liên hợp quốc, của các cơ quan điều ước quốc tế về quyền con người.

Tham gia Công ước CERD, Việt Nam chấp nhận sự giám sát quốc tế về quyền của người dân tộc thiểu số thông qua các hình thức: Xem xét báo cáo quốc gia theo cơ chế đánh giá định kỳ; Thực hiện các thủ tục đặc biệt nhằm điều tra, đánh giá các vấn đề, tình huống về quyền con người cụ thể; Đưa ra các bình luận, khuyến nghị đối với Việt Nam liên quan trực tiếp đến các quyền của người dân tộc thiểu số…

Ngoài cơ chế giám sát của các cơ quan của Liên hợp quốc, của các cơ quan điều ước quốc tế về quyền con người, ở cấp độ song phương, Việt Nam hiện có cơ chế Đối thoại nhân quyền chính thức với 5 đối tác là: Mỹ, EU, Thuỵ Sĩ, Na Uy và Australia. Việt Nam cũng có nhiều kênh trao đổi không chính thức về các vấn đề quyền con người, tham gia nhiều diễn đàn liên quan đến các khía cạnh khác nhau của quyền con người.

Ở đây, cũng cần nói thêm rằng trong lĩnh vực nhân quyền “vẫn đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa lực lượng tiến bộ nhằm phát huy những giá trị cốt lõi thuộc về con người với các thế lực lợi dụng nhân quyền để thực hiện ý đồ chính trị[1]”.

Nhìn chung, trong các hoạt động hợp tác song phương cũng như tại các diễn đàn đa phương về quyền con người, Việt Nam luôn tích cực, chủ động và có những đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên tinh thần đối thoại, tăng cường hiểu biết lẫn nhau.

Đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền nói chung, quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi một số lực lượng chính trị, xã hội quốc tế sử dụng nhân quyền như một công cụ để thực hiện các cuộc “cách mạng màu” nhằm lật đổ các chế độ xã hội mà họ coi là “không phù hợp” với quan điểm của họ, với các giá trị nhân quyền phổ biến thì cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này đã mang những nội dung và tính chất mới đối với nhiều quốc gia - dân tộc nhằm bảo vệ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên Liên hợp quốc.

Đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ các quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người, bảo vệ các thành quả về quyền con người mà nhân dân Việt Nam nói chung, cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng đã đạt được trong hơn 9 thập niên qua; đồng thời kiên quyết chống lại các luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của một số thế lực thù địch nhằm lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động, chia rẽ, tạo sự bất ổn về chính trị, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, làm suy giảm lòng tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước…

Thực hiện Công ước CERD, Chính phủ Việt Nam đã giao Uỷ ban Dân tộc chủ trì phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan xây dựng báo cáo quốc gia và tổ chức bảo vệ tại Ủy ban Công ước CERD, hướng tới mục tiêu đóng góp vào việc ngăn chặn và chống lại sự phân biệt chủng tộc.

Việt Nam đã 4 lần bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia thực thi Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012. Tại khóa họp lần thứ 111 (ngày 29, 30/11/2023), Việt Nam trình bày báo cáo quốc gia định kỳ từ lần thứ 5 theo hướng dẫn của Ủy ban Công ước CERD.

Báo cáo tập trung thể hiện kết quả Việt Nam thực thi Công ước CERD từ năm 2013 - 2019, cụ thể là các nội dung: Hệ thống pháp luật Việt Nam và các thiết chế bảo đảm, thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam; Định nghĩa phân biệt chủng tộc và đánh giá sự phù hợp của định nghĩa phân biệt chủng tộc trong các điều luật của Việt Nam; Vai trò quan trọng của công tác dân tộc và thực hiện các chính sách dân tộc trong việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Kết quả thực hiện các cam kết cấm và xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam; Các biện pháp đảm bảo cho người dân tộc thiểu số ở Việt Nam không phải chịu bất cứ hành động phân biệt chủng tộc nào.

Ngoài việc bảo vệ báo cáo quốc gia trước Uỷ ban Công ước CERD, Việt Nam còn tham gia tích cực các phiên đối thoại với các Ủy ban Công ước CERD và nghiêm túc xem xét các khuyến nghị, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch triển khai tăng cường thực thi các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên./.

-------------------------------

[1] Xem TS. Võ Công Khôi, Nhận diện các chiêu bài can thiệp khoác áo nhân quyền, Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 4 (32) - 2023, tr.3

Phương Liên - Lý Thu

Bài 1: Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc

 

(ĐCSVN) - Từ chủ trương, đường lối đến hiện thực cuộc sống đều là những luận cứ đanh thép, thuyết phục, có ý nghĩa then chốt trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc; bác bỏ những luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng phủ nhận thành tựu bảo đảm quyền cho người dân tộc thiểu số và lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động, chia rẽ, tạo sự bất ổn về chính trị ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc (ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Sinh thời, trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ miền núi, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ ta đối với miền núi là rất đúng đắn. Trong chính sách đó có hai điều quan trọng nhất là: Đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào”[1].

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 53 dân tộc thiểu số. Kể từ ngày thành lập, 94 năm qua (1930 - 2024), Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo, hiệu quả chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng sự phát triển, không ngừng tự hoàn thiện nhận thức, lý luận về vấn đề dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho từng thời kỳ.

Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ I (tháng 3/1935), Đảng đã đề ra Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số. Nghị quyết có đoạn nêu rõ: “Đảng Đại hội xét rằng lực lượng tranh đấu của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn”… và “sự miệt thị công tác trong các dân tộc thiểu số là một lầm lỗi chính trị rất to lớn”[2]

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951), Đảng chỉ rõ: “Các dân tộc trên đất nước Việt Nam được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc. Kiên quyết chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đánh đổ âm mưu gây chia rẽ dân tộc của đế quốc và bè lũ tay sai. Cải thiện đời sống đồng bào, giúp họ tiến bộ về mọi mặt, đảm bảo họ tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong giáo dục địa phương thiểu số”.

Tháng 8/1952, Bộ Chính trị có nghị quyết về “Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay”.

Ngày 22/6/1953, Chính phủ ban hành chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam, trong đó khẳng định đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến, kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt.

Đại hội IV (1976), Đảng chủ trương: “Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam… Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người với dân tộc đông người; đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp; làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc, đoàn kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội VI (1986) là Đại hội của đường lối Đổi mới đất nước, song với vấn đề dân tộc, Đảng ta kiên trì chủ trương: “Phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể, kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã hội”.

Qua các kỳ Đại hội VII đến XII, Đảng ta đều tiếp tục khẳng định lại và bổ sung, đổi mới trong việc đề ra chủ trương, đường lối để lãnh đạo về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc.

Như vậy, có thể thấy rất rõ, qua các thời kỳ khác nhau, với những nhiệm vụ cách mạng khác nhau nhưng quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, chính sách dân tộc luôn nhất quán quan điểm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển”[3], Việt Nam không ủng hộ phân biệt đối xử giữa các dân tộc.

Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam luôn bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển

Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trên cơ sở nhận định sâu sắc tình hình trong nước, thế giới cũng như tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 12/3/2003, tại Hội nghị lần thứ 7 khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong tình hình mới. Trong Nghị quyết này, Ban Chấp hành Trung ương đề ra 5 quan điểm, đó là:

Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

Thứ ba, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội; thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Thứ tư, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số và miền núi; trước hết, tập trung phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

Thứ năm, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.

Riêng đối với Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong tình hình mới, Đảng ta đã 2 lần tiến hành tổng kết. Lần đầu vào năm 2009, sau đó, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 57-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW. Lần tổng kết thứ hai vào năm 2019, sau đó, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, trong đó Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối cho công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030 với rất nhiều điểm mới, mang tính đột phá.

Đến Đại hội XIII (2021), Đảng đã khẳng định chủ trương về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc cho giai đoạn 2021 - 2025, đó là: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi[4]”.

Không lâu sau Đại hội XIII, nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 (ngày 23/5/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích và nêu rõ: một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”…; “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo”.

Cùng với đó, trong bài viết “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”[5]

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới”[6]

Như vậy, về mặt đối nội, hệ thống các quan điểm, đường lối vấn đề dân tộc của Đảng là mục tiêu, căn cứ, cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế thành Hiến pháp, pháp luật và các chính sách dân tộc, huy động các tổ chức chính trị - xã hội cùng phối hợp thực hiện, tạo ra sức mạnh tổng thể của cả hệ thống chính trị cùng nhau xây dựng các mối quan hệ dân tộc tốt đẹp; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng của Việt Nam.

----------------------------------------------

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập.10, tr.608

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2013, tr.15,

[3] Chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, Nxb. Văn hoá dân tộc Hà Nội - 2000, Tr 127

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr.140 - 141

[5] Nguyễn Phú Trọng, Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2023, tr.15

[6] Nguyễn Phú Trọng, Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúcNxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2023, tr.21

Mời đọc Bài 2: Việt Nam tích cực thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

Phương Liên - Lý Thu