“Thi đua ái quốc nhằm ba mục đích chính: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức là làm cho nhân dân no, ấm, biết chữ, làm cho Tổ quốc độc lập, tự do” .
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài: “Thi đua ái quốc, hiện tại và tương lai vẻ vang của nước ta”, đăng trên Báo Nhân dân, số 15, ngày 05 tháng 7 năm 1951. Đây là giai đoạn đầu thực hiện đường lối trường kỳ kháng chiến do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II xác định. Với phương châm: đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh biện pháp thi đua yêu nước, khơi dậy, huy động sức dân tham gia cuộc kháng chiến kiến quốc mau giành thắng lợi.
Mấy ngày gần đây, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện những thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc về vụ việc quân nhân Nguyễn Văn Nghiệp thuộc Trung đoàn 12, Sư đoàn 3, Quân khu 1 tử vong; gây tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến cơ quan, đơn vị Quân đội và gia đình quân nhân. Đặc biệt, một số đối tượng bất mãn, phản động đã lợi dụng sự việc này để quy chụp, suy diễn, vu khống nhằm thực hiện âm mưu kích động chống phá Quân đội nói chung, chống phá công tác tuyển quân nói riêng. Báo Quân đội nhân dân đã làm việc với các cơ quan chức năng để tìm hiểu rõ sự việc.
Sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng do màng não cầu thể tối cấp rất nguy hiểm
Theo báo cáo của Trung đoàn 12, Sư đoàn 3, Quân khu 1, Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp sinh ngày 3-10-2001, quê ở thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; nhập ngũ đầu năm 2024. Sau khi đi học lớp đào tạo nhân viên quân khí tại Trường Quân sự Quân khu 1 trở về, từ tháng 11-2024, đồng chí Nghiệp là nhân viên quân khí của Đại đội 1, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 và ở cùng phòng với nhân viên quân y đại đội.
Quân y đơn vị cho biết, khoảng 8 giờ sáng 9-2-2025, đồng chí Nghiệp bị sốt và đau bụng, nằm nghỉ ngơi, theo dõi. Đến 18 giờ cùng ngày, thấy đồng chí Nghiệp không đỡ, sốt cao, đau bụng quanh rốn, chỉ huy đơn vị quyết định đưa đồng chí Nghiệp đến Bệnh xá Trung đoàn, rồi chuyển lên Bệnh xá Sư đoàn để theo dõi, điều trị, nhưng các triệu chứng bệnh không giảm. Lúc 22 giờ 50 phút, đơn vị đưa đồng chí Nghiệp đến Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Quân y 110. Đến 23 giờ 50 phút, Bệnh viện Quân y 110 dùng xe cứu thương, cho thở ô xy, chuyển bệnh nhân Nghiệp ra Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì tình trạng bệnh vượt quá khả năng điều trị. Khoảng 0 giờ 55 phút, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thông báo bệnh nhân Nguyễn Văn Nghiệp đã tử vong.
Ngay sau khi nhận được thông báo và kết luận của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 về việc Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp tử vong do bệnh não cầu, chỉ huy và cơ quan các cấp của Trung đoàn 12 đã báo cáo cấp trên theo quy định, sau đó thông báo với gia đình đồng chí Nghiệp. Bộ tư lệnh Quân khu 1 đã chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với đơn vị và gia đình Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp, cùng chính quyền địa phương để giải quyết vụ việc theo đúng quy định.
Báo cáo của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 nêu rõ: Bệnh nhân Nguyễn Văn Nghiệp được đưa đến Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 lúc 0 giờ 36 phút ngày 10-2; trước đó khoảng 10 phút, bệnh nhân ngừng tuần hoàn, được ép tim, bóp bóng, chuyển vào Khoa Cấp cứu trong tình trạng hôn mê sâu, Glasgow 3 điểm, đồng tử 2 bên giãn 4mm, mất phản xạ ánh sáng, ban hoại tử toàn thân, da lạnh, mạch cảnh không bắt được, không đo được huyết áp. Chẩn đoán bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện, theo dõi sốc nhiễm khuẩn. Kíp trực lập tức xử trí hồi sinh tim phổi nâng cao (ép tim, đặt nội khí quản, tiêm adrenalin, truyền nabica), giải thích tình trạng bệnh nhân nặng cho chỉ huy đơn vị và quân y đơn vị đi cùng. Tuy nhiên, tình trạng bệnh nhân không cải thiện, sau một thời gian ép tim không đập lại. Kíp trực thông báo với quân y đơn vị về khả năng bệnh nhân nhiễm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, cần tổ chức cách ly đơn vị. Sau khi có kết quả các xét nghiệm, kíp trực của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 hội chẩn và kết luận xác định, bệnh nhân Nguyễn Văn Nghiệp ngừng tuần hoàn ngoại viện vì sốc nhiễm khuẩn do màng não cầu thể tối cấp.
Lấy mẫu xét nghiệm đối với các quân nhân tiếp xúc gần bệnh nhân Nguyễn Văn Nghiệp và triển khai phòng, chống dịch bệnh tại Sư đoàn 3. Ảnh: CÔNG CƯỜNG
Đại tá, Tiến sĩ Vũ Viết Sáng, Phó viện trưởng Viện Lâm sàng các bệnh truyền nhiễm, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cho biết: Chẩn đoán chính xác của bệnh nhân Nguyễn Văn Nghiệp là nhiễm khuẩn huyết do màng não cầu thể tối cấp, biến chứng sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng. Đây là một thể bệnh rất nặng do vi khuẩn màng não cầu gây nên, người ta hay gọi là thể sét đánh đã được ghi nhận nhiều trong y văn. Diễn biến của bệnh nhân rất là tối cấp, từ 8 giờ sáng đến nửa đêm, bệnh nhân có đầy đủ triệu chứng của nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng, trong đó có tình trạng xuất huyết toàn thân, rất điển hình của xuất huyết do bệnh màng não cầu, mà bệnh này rất nguy hiểm, thường hay xuất hiện ở những thanh niên trẻ. Những bệnh nhân này có thể diễn tiến nặng dẫn tới tử vong trong vòng từ 12 đến 24 giờ.
Sự việc bị xuyên tạc, vu khống nhằm kích động chống phá
Sau khi được đơn vị báo tin Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp tử vong vì mắc bệnh do màng não cầu thể tối cấp, dù đơn vị và các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không thể cứu chữa được vì diễn biến của bệnh quá nhanh, một số người thân trong gia đình, họ hàng, người cùng làng của Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp trong lúc vô cùng đau xót đã có thái độ bức xúc, hành vi quá khích và lời nói không đúng mực; thậm chí có người suy diễn rằng con cháu mình thiệt mạng vì bị cán bộ đơn vị đánh.
Đáng trách nhất là có 1-2 người vừa kêu gào, rêu rao những thông tin sai sự thật, không hề có bằng chứng gì, ngang nhiên quy chụp quân nhân Nghiệp bị cán bộ đánh dẫn đến tử vong và vu khống cán bộ đơn vị, công an bao che cho vi phạm này, vừa chụp ảnh, quay video clip phát trực tiếp trên Facebook và đề nghị mọi người chia sẻ thật mạnh (!?).
Trước thông tin trên mạng xã hội, dù chưa biết đúng hay sai nhưng một số đối tượng vẫn tùy tiện chia sẻ, bình luận với nội dung sai sự thật và giọng điệu kích động, tiêu cực, làm sai bản chất và đẩy nóng vụ việc, gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của Quân đội. Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động đã triệt để lợi dụng sự việc trên để chống phá Quân đội nói chung, chống phá công tác tuyển quân nói riêng. Chỉ riêng trang Facebook Việt Tân đã nhiều lần đăng tải hình ảnh, video clip về sự việc này kèm những lời vu khống, bịa đặt, có tính chất kích động
Một số trang tin phản động còn moi móc lại vụ việc quân nhân tử vong trong thời gian trước kèm theo luận điệu “Nhiều quân nhân tử vong bất thường” để đẩy nóng vụ việc, kích động sự hoài nghi, gây mất niềm tin của nhân dân vào Quân đội nhằm thực hiện mưu đồ đen tối của chúng là chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Cần tỉnh táo để không bị sa vào “bẫy” nguy hiểm
Tìm hiểu sự việc, chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 và được các đồng chí cho biết: Đơn vị quản lý hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ và luôn chú trọng duy trì sự đoàn kết bằng rất nhiều biện pháp. Không thể có tình trạng quân nhân thường xuyên bị đánh đập, nên mọi người cần tỉnh táo trước những thông tin suy diễn, không đúng sự thật.
Để kết luận chính xác nguyên nhân khiến Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp tử vong, chỉ huy Sư đoàn 3, Bộ tư lệnh Quân khu 1 đã đề nghị cơ quan điều tra vào cuộc và thống nhất với gia đình tiến hành khám nghiệm tử thi từ ngày 10-2. Chiều 12-2, Viện Pháp y Quân đội đã có văn bản cung cấp thông tin sơ bộ, xác định nguyên nhân và thời gian tử vong của quân nhân Nguyễn Văn Nghiệp với nội dung chính như sau: Không phát hiện tổn thương do tác động của ngoại lực (không xây xát da, không bầm tụ máu, không có gãy xương, không sai khớp...); nhiều ban xuất huyết, hoại tử khắp toàn thân (đầu mặt cổ, ngực, bụng, lưng, tứ chi); tràn dịch khoang màng phổi, màng bụng, màng tim; màng não sung huyết, có giả mạc; não phù nề, bề mặt bán cầu đại não căng; dịch não tủy có màu hồng; phù phổi...
Các kết quả xét nghiệm đã thực hiện của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đối với bệnh nhân Nghiệp như sau: CT sọ não không thấy hình ảnh bất thường nội sọ; CT lồng ngực: Hình ảnh dịch màng phổi phải, dịch màng ngoài tim, phù phổi; xét nghiệm máu bằng Realtime PCR: Neisseria meninggitidis: dương tính.
Nhận định: Không có dấu hiệu tổn thương do tác động của ngoại lực trên tử thi. Nguyên nhân tử vong: Suy hô hấp, tuần hoàn không hồi phục trên người nhiễm bệnh do màng não cầu.
Liên quan đến sự việc này, ngay sau khi nhận được thông tin Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp tử vong do màng não cầu thể tối cấp, trong sáng 10-2, Viện Y học dự phòng Quân đội đã khẩn trương lấy mẫu, làm các xét nghiệm PCR đối với 45 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 tiếp xúc gần với bệnh nhân nhằm phòng, chống dịch bệnh cho các quân nhân và đơn vị. Kết quả xét nghiệm cho thấy có 7/45 mẫu dương tính với vi khuẩn não mô cầu. Hiện Viện Y học dự phòng Quân đội đang tích cực phối hợp cùng Sư đoàn 3 và các lực lượng chức năng của Quân khu 1 triển khai đồng bộ nhiều biện pháp phòng, chống dịch bệnh.
Trước sự việc không mong muốn nêu trên, cùng những thông tin sai trái chia sẻ trên mạng xã hội làm ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, danh dự của Quân đội, khiến người dân, nhất là thanh niên chuẩn bị nhập ngũ có thể hiểu sai về môi trường Quân đội; thủ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo các cơ quan chức năng vào cuộc điều tra, làm rõ sự việc, kết luận chính xác, khách quan; đồng thời xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm pháp luật. Cục Bảo vệ an ninh Quân đội đã triệu tập, làm việc với một số đối tượng có liên quan đến vụ việc và bước đầu, các đối tượng đều thừa nhận hành vi sai trái của mình. Trong đó, đối tượng Nguyễn Ngọc T. (ở Hiệp Hòa, Bắc Giang) bày tỏ: Việc tùy tiện chia sẻ video clip phản ánh không đúng về vụ việc quân nhân Nguyễn Văn Nghiệp tử vong lên tài khoản TikTok của cá nhân, cũng như không kiểm duyệt bình luận xấu độc trong các video clip... đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của đơn vị Quân đội, là hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật và vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng mạng xã hội, đăng tải thông tin lên không gian mạng.
Sự việc Hạ sĩ Nguyễn Văn Nghiệp tử vong vì sốc nhiễm khuẩn do màng não cầu thể tối cấp đã và sẽ tiếp tục được các cơ quan chức năng kết luận rõ ràng, chính xác theo đúng quy định của pháp luật. Mỗi người dân cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các thủ đoạn lợi dụng sự việc để suy diễn, vu khống, kích động chống phá của các đối tượng bất mãn, phản động; không tùy tiện chia sẽ những hình ảnh, thông tin sai sự thật, chưa được kiểm chứng kẻo sa vào “bẫy” của những đối tượng xấu, vừa vi phạm pháp luật vừa trái với đạo đức, lương tâm.
Sau hàng loạt sự kiện đối ngoại thành công gần đây, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố, mở rộng. Công tác đối ngoại và ngoại giao của Việt Nam đã đạt được những kết quả toàn diện, quan trọng, trở thành điểm sáng nổi bật; tạo bước phát triển mới về chất trong cục diện đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Trước thành công đó của Việt Nam, một số cá nhân, tổ chức phản động, các thế lực thù địch bày tỏ sự tức tối và càng ra sức chống phá. Chúng lợi dụng internet, thông qua các trang mạng xã hội, một số hãng truyền thông nước ngoài có phiên bản tiếng Việt để xuyên tạc, phủ nhận thành quả đường lối đối ngoại của Việt Nam; trắng trợn bịa đặt rằng đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay là “đu dây”; nền ngoại giao của Việt Nam "cục bộ", “chọn bên”, bị lệ thuộc, chi phối bởi các cường quốc.
Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch đưa ra lập luận rằng, để “dân chủ” hơn nữa, Việt Nam cần bỏ chính sách quốc phòng “4 không”. Luận điệu xuyên tạc trên vô cùng nguy hại khi nó làm cho số ít người không có thông tin đầy đủ về tình hình Việt Nam thời gian gần đây hoang mang, dao động; thậm chí có thể gây chia rẽ, hiểu sai lệch về quan hệ Việt Nam với các nước, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh trong trả lời phỏng vấn phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã đưa ra lập luận rõ ràng để phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh. Ảnh: HOA HUYỀN
Phóng viên (PV):Đề nghị đồng chí làm rõ sự sai trái trong các khái niệm “đu dây”; "ngoại giao cục bộ", “chọn bên”, bị lệ thuộc, chi phối bởi các cường quốc... mà các thế lực thù địch xuyên tạc về chính sách đối ngoại của Việt Nam?
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh: Thứ nhất, không biết họ nói những khái niệm đó là gì, nhưng với những nước nhỏ mà không dựa trên lợi ích quốc gia, không dựa trên những đan xen hai bên cùng có lợi, không dựa trên luật pháp quốc tế thì “đu dây" là cực kỳ nguy hiểm. Đu dây theo tôi hiểu, tức là anh đu bên này một tí, anh đu bên kia một tí và anh rất dễ rơi vào thế kẹt giữa sự cạnh tranh của các nước lớn. Việt Nam không phải kiểu đó. Quan điểm rõ ràng của Việt Nam là: Tôi có lợi ích khi hợp tác với anh, anh có lợi ích khi hợp tác với tôi và nếu các bên song trùng lợi ích thì nhân cái hợp tác đó lên.
Thứ hai, tôi chơi với anh A, tôi cũng chơi với anh B trên nguyên tắc chung, khi có khác biệt thì phải giải quyết bằng đối thoại trên tinh thần các bên tôn trọng lợi ích của nhau. Tôi không đi với bên này để chống bên kia. Ví dụ, tôi quan hệ với Trung Quốc là vì lợi ích của tôi, của Trung Quốc và của chung hai bên. Tôi quan hệ với Mỹ cũng vậy, cũng vì lợi ích của Mỹ, lợi ích của Việt Nam, hai bên phải đan xen lợi ích thì mới thiết lập quan hệ ngoại giao.
“Đu dây" là gió chiều nào theo chiều ấy, thiên bên này một tí, thiên bên kia một tí. Việt Nam không có quan điểm như vậy. Trong nhiều năm làm công tác ngoại giao, tôi đôi khi được các bạn quốc tế nhắc rằng, Việt Nam đôi lúc còn "hơi cứng" trong quan hệ, một số trường hợp còn chưa uyển chuyển. Nguyên nhân là vì chúng ta giữ vững nguyên tắc trong thảo luận một số vấn đề thì có động chạm đến lợi ích quốc gia; nguyên tắc của luật pháp quốc tế hay vấn đề về thể chế chính trị.
Phải mất 10 năm cân nhắc để nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, trong khi đó, ngay từ khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, thế thì "đu dây" ở chỗ nào? Trong những lần trả lời phỏng vấn trước đây, cá nhân tôi không thích sử dụng khái niệm cân bằng quan hệ với các nước lớn. Không phải là vấn đề cân bằng, mà là tôi quan hệ với tất cả nước lớn, dựa trên lợi ích quốc gia, hai bên cùng có lợi và tất nhiên phải dựa trên luật pháp quốc tế.
Còn nếu hiểu cân bằng theo cách hiểu cơ học, là nếu tôi đi 50 với nước này, thì tôi phải đi 50 với nước kia là không đúng. Lợi ích quốc gia sẽ quyết định không gian hợp tác giữa hai nước. Ví dụ Việt Nam quan hệ với Pháp, chúng ta thấy tiềm năng địa chính trị của Pháp ở châu Âu; còn với Trung Quốc, ngoài quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống thì Trung Quốc là nền kinh tế lớn, với thế mạnh về chuỗi cung ứng hàng hóa, nguyên liệu, hạ tầng... Trong khi đó, với Mỹ thì chắc chắn là khoa học-công nghệ. Mỗi nước có thế mạnh riêng, làm sao có thể xuất sang nước này 50% thì cũng xuất sang nước kia 50% theo cách hiểu thô thiển là cân bằng được.
Và như vậy, câu chuyện "đu dây" hay cân bằng nước lớn, nếu cứng nhắc những nguyên tắc cố định theo kiểu cơ học như vậy sẽ không phản ánh đúng sự độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa.
PV: Như vậy có thể hiểu, ngoại giao với các nước lớn cần có tầm nhìn và chiến lược?
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh: Về đối ngoại hay ngoại giao, có hai thành tố quan trọng: Tầm nhìn chiến lược và thủ thuật. Tầm nhìn chiến lược là gì? Nói đại thể, tại sao từ những năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy phải thiết lập quan hệ với các nước lớn, trong đó có Mỹ. Đấy là tầm nhìn chiến lược. Còn chỉ để nhằm ứng xử với những cạnh tranh quyết liệt của các nước lớn thì đó là một phần thủ thuật thôi.
PV: Nếu các nước lớn, các đối tác đặt điều kiện thì mới hợp tác, chúng ta phải làm gì?
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh: Trong quan hệ quốc tế, những câu chuyện đặt điều kiện là chuyện thường xuyên. Bởi vì hai bên có lợi ích song trùng và cả những lợi ích không song trùng.
Ví dụ, việc Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với những điều khoản có thể chưa thực sự phù hợp, nhưng mình phải chấp nhận khi đạt được lợi ích chung lớn hơn. Đấy là khi điểm cộng có tổng bằng dương cho lợi ích quốc gia, không gây hại và không ảnh hưởng tới vấn đề cốt lõi thì phải tiến hành chứ.
Cho nên, trong quan hệ với các nước, luôn tồn tại câu chuyện khác biệt, nhưng vẫn có song trùng, chúng ta phải có cách tiếp cận để giữ được cái cốt lõi của mình nhưng vẫn tranh thủ được thuận lợi từ đối tác.
PV: Trong gần 40 năm đất nước đổi mới, ấn tượng của đồng chí với công tác ngoại giao là điều gì?
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh: Điều tôi ấn tượng nhất có lẽ là chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế một cách tự tin, chúng ta đã vững mạnh hơn rất nhiều. Ngoại giao vừa đóng góp hiệu quả vào việc phát triển đất nước, đồng thời vừa tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho hòa bình và phát triển. Vị thế Việt Nam đã lên rất nhiều.
Có những lúc, có những thời điểm ngoại giao tạo ra động lực mới, thậm chí là dẫn dắt. Ví dụ, việc “phá vây” ngoại giao thành công đã tạo được không gian để phát triển. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã “phá vây” thành công. Năm 1991 là Hiệp định Paris về Campuchia; chúng ta bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Năm 1994-1995 là giai đoạn vào ASEAN, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; bình thường hóa, thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Có thể khẳng định, khi được sự ủng hộ của quốc tế, đặc biệt là các nước lớn, đã tạo ra bước đột phá.
Như vậy, ngoại giao có vai trò định hướng hội nhập và mang tính dẫn dắt. Có thể lấy ví dụ thời điểm dịch Covid-19 mấy năm vừa rồi. Đó là thời gian khó khăn về dịch bệnh, kinh tế thế giới đứng trước bờ vực suy thoái, cạnh tranh nước lớn quyết liệt, nhiều nước không dám quan hệ với xung quanh. Chính thời điểm khó khăn này lại là những năm đối ngoại Việt Nam đột phá. Tôi nghĩ rằng không phải ngẫu nhiên mà tất cả nước lớn và những nước quan trọng nhất lại cung cấp cho Việt Nam lượng vaccine lớn như vậy để phòng, chống dịch.
Trong bối cảnh đầy cạnh tranh, Việt Nam vẫn sử dụng tốt ưu thế, vị thế của mình, đan xen lợi ích với các đối tác, từ đó thiết lập và nâng cấp quan hệ với những nước mà thậm chí giữa họ đang cạnh tranh với nhau. Ví dụ cụ thể chính là việc giữ được quan hệ tốt đẹp với các nước lớn như Mỹ, Nga và Trung Quốc; tranh thủ được nguồn lực từ các nước này, nhưng Việt Nam vẫn giữ vững quan điểm, đường lối đối ngoại của mình, tạo sự ổn định và môi trường thuận lợi nhất cho phát triển.
Không chỉ với các nước lớn, hiện Việt Nam đang có quan hệ tốt với tất cả những trung tâm quan trọng của thế giới, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mô hình sang phát triển xanh, bền vững, dựa trên đổi mới và sáng tạo. Đối ngoại thể hiện vai trò mở đường, đưa khoa học kỹ thuật mới, công nghệ cao của thế giới về cho đất nước.
PV:Làm tốt công tác đối ngoại chính là góp phần tạo ra sức mạnh mềm. Điều này có tầm quan trọng đặc biệt trong bối cảnh mới, đồng chí có thể lý giải sâu hơn về điều này?
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh: Bây giờ Việt Nam đã có sức mạnh mềm và chúng ta phải biết cách nhân lên sức mạnh mềm thì mới tạo ra sức hấp dẫn của chính chúng ta. Không phải chỉ là vấn đề vị thế chung chung, sức mạnh mềm còn có thể tạo ra cơm áo, tiền bạc.
Lấy ví dụ, nếu các khâu liên quan đến thủ tục, thể chế bị trì trệ, chắc chắn các dự án lớn, tập đoàn lớn, nhỏ của các quốc gia sẽ không hài lòng và ta sẽ mất cơ hội. Vì thế, chúng ta phải khắc phục ngay, có môi trường thông thoáng, hạ tầng tốt, con người có trình độ cao, được những người làm công tác ngoại giao quảng bá tốt, nhất định các nhà đầu tư chất lượng cao sẽ tới đầu tư.
PV: Để có thể phản bác kịp thời quan điểm sai trái của các thế lực phản động, là người kinh qua nhiều vị trí công tác trong ngành ngoại giao, đồng chí chia sẻ kinh nghiệm gì với thế hệ cán bộ trẻ?
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh: Trước hết, phải xác định rất rõ thông tin mà các thế lực thù địch xuyên tạc. Đánh giá đúng các nguy cơ, thường xuyên cảnh giác, làm rõ những vấn đề có tính nguyên tắc, từ đó có biện pháp ngăn chặn.
Lấy ví dụ, trước đây lo ngại quá trình hội nhập có thể bị hòa tan, nhưng thực tế gần 40 năm đổi mới chứng minh chúng ta tham gia và hội nhập với thế giới mà chúng ta vẫn đứng vững. Chúng ta được lợi rất nhiều, thậm chí là vững hơn, nhận thức tốt hơn.
Thế giới đang chuyển động rất sâu sắc, có cả thuận lợi và tạo động lực nếu chúng ta bắt kịp thì sẽ vươn lên, mà không bắt kịp thì tụt hậu càng xa. Ngoại giao cũng phải thích ứng để đủ sức nhân lên vị thế của Việt Nam. Ngoại giao bây giờ phải biết đặt câu hỏi điều gì tốt cho sự phát triển của đất nước. Nhà ngoại giao cũng phải hiểu về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh... cái gì thì tốt cho Việt Nam, liệu có bị lệ thuộc không.
Với chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác xây dựng nền công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam “chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại” đã đạt được những thành tựu quan trọng, từng bước định vị giá trị nền CNQP Việt Nam trên bản đồ thế giới. Thế nhưng các thế lực thù địch, thiếu thiện chí không bao giờ từ bỏ mục tiêu chống phá, cố tình phủ nhận, bôi đen, song đã bị minh chứng sinh động, thuyết phục của CNQP Việt Nam dập tắt.
Luận điệu lạc lõng, âm thanh "lạc nhịp"
Vừa qua, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 đã thành công rực rỡ, được nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Chỉ ít ngày ngắn ngủi nhưng triển lãm đã đón hơn 260.000 lượt người tham quan. Thông qua triển lãm, nhân dân nói chung và các chuyên gia trong và ngoài nước đều đánh giá cao, bày tỏ sự cảm phục, niềm tự hào trước sự phát triển của CNQP Việt Nam và sức mạnh của Quân đội ta. Đặc biệt, qua triển lãm, các đơn vị của Tổng cục CNQP, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) đã ký kết 16 hợp đồng với tổng giá trị hơn 286 triệu USD và 17 thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa CNQP Việt Nam và doanh nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Ấn Độ, Pháp, Bỉ... Triển lãm được truyền thông trong nước và quốc tế đưa tin nổi bật trên tất cả loại hình, qua đó khẳng định giá trị, góp phần lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng với bạn bè quốc tế.
Thế nhưng, một số hãng truyền thông được "giật dây" của thế lực thù địch và cá nhân thiếu thiện chí, các tổ chức phản động ở nước ngoài với mưu đồ đen tối, tâm địa xấu xa cố tình xuyên tạc, phủ nhận thành tựu, hạ thấp uy tín của CNQP Việt Nam.
Biên đội máy bay chiến đấu Su-30MK2 bay nhả đạn nhiễu chào mừng Khai mạc Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024.
Giọng điệu lạc lõng, nực cười, khi họ cho rằng: Triển lãm quân sự "không giúp người dân tin tưởng vào Quân đội", CNQP Việt Nam “đầu tư chắp vá” nên không có khả năng tự chủ, vẫn trong “vòng luẩn quẩn của câu chuyện ốc vít” mà thôi. Những phần tử cơ hội chính trị còn quy chụp rằng, cuộc triển lãm lần này chỉ mang tính tuyên truyền để “ru ngủ” nhân dân; “khỏa lấp đi những yếu kém” của mình nhiều hơn là khẳng định năng lực tự chủ về công nghệ quân sự...
Đó là những giọng điệu "lạc lõng", âm thanh "lạc nhịp” trong bài ca hùng tráng của CNQP Việt Nam. Nó mang tính phiến diện, thiếu khách quan, thể hiện thái độ định kiến đối với những nỗ lực và thành tựu của nền CNQP Việt Nam nói chung, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 nói riêng. Mục tiêu của những kẻ hô hào yếu đuối này nhằm hạ thấp uy tín, năng lực, trình độ, khả năng tự chủ và thành tựu đáng tự hào của CNQP Việt Nam; phá hoại quan hệ hợp tác của các doanh nghiệp quốc phòng nước ta với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực quan trọng, giàu tiềm năng này.
Những thành tựu công nghiệp quốc phòng không thể phủ nhận
Thứ nhất, thành tựu nền CNQP Việt Nam là hệ quả tất yếu của đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta về phát triển CNQP trong thời kỳ mới.
Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện phát triển nền CNQP nước nhà gắn với xây dựng Quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định rõ định hướng chiến lược: Phát triển nền CNQP theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Mục tiêu là làm chủ công nghệ tiên tiến để xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đổi mới, hội nhập và nâng cao hiệu quả quản lý CNQP, tích cực cải cách hành chính, bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện. Các cơ chế, chính sách đặc thù và chương trình hợp tác khoa học-công nghệ; hệ thống quản lý và cơ sở CNQP được kiện toàn đồng bộ; các doanh nghiệp quốc phòng được tái cơ cấu theo hướng tinh gọn, hiệu quả... Đây là hành lang, thể chế quan trọng, thể hiện sự quan tâm và tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong phát triển CNQP thời kỳ mới, tạo điều kiện để CNQP Việt Nam bứt phá và phát triển.
Thứ hai, thành tựu của CNQP Việt Nam toàn diện, vững chắc và có bước đột phá.
Từ công tác nghiên cứu sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thực hiện chủ trương phát triển lưỡng dụng đến công tác phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và hoạt động hợp tác quốc tế về CNQP đều đạt những thành tựu nổi bật. Hơn một thập kỷ qua, ngành CNQP Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc khi làm chủ công nghệ, thiết kế và sản xuất nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội, tiêu biểu như: Các tổ hợp tên lửa tiên tiến, radar thế hệ 3; hệ thống tự động hóa chỉ huy phòng không-không quân, máy bay trinh sát không người lái; tàu ngầm quân sự cỡ nhỏ; xe thiết giáp; các loại súng đạn chống tăng, đạn pháo; khí tài quan sát ngày đêm; trang bị thông tin thế hệ mới... đã minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền CNQP Việt Nam.
Đội ngũ nhân lực trong ngành CNQP Việt Nam có bước tiến vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến đầu năm 2022, số cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tăng gần 2,4 lần so với năm 2011. Các nhóm nghiên cứu mạnh và tiềm năng được hình thành, tập trung vào những lĩnh vực then chốt như vũ khí bộ binh, đóng tàu, chế tạo tên lửa và phát triển trang thiết bị công nghệ cao, khẳng định sự phát triển toàn diện của ngành. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “CNQP, an ninh được tập trung đầu tư phát triển, sản xuất được nhiều loại phương tiện, thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhiều thiết bị máy móc, sản phẩm dân dụng chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường”(1), góp phần khẳng định tầm quan trọng và giá trị của ngành CNQP trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Thứ ba, CNQP Việt Nam từng bước khẳng định năng lực tự chủ trong nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và bước đầu định vị giá trị của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng thế giới.
Những năm gần đây, ngành CNQP Việt Nam có những bước đột phá trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, đáp ứng một phần nhu cầu trong nước, giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước. Theo lãnh đạo Tổng cục CNQP, trong 10 năm qua, 80% vũ khí và trang bị được đưa vào sử dụng xuất phát từ các đề tài nghiên cứu trong nước.
Sự xuất hiện của các loại vũ khí, khí tài hiện đại, đa dạng do Việt Nam tự chủ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, như: Radar cảnh giới tầm gần, radar 3D phòng không cấp chiến thuật, radar phòng không tầm trung; tổ hợp trinh sát, gây nhiễu chống phương tiện bay không người lái cấp chiến thuật; tổ hợp tên lửa đất đối hải Trường Sơn gồm bệ phóng, tên lửa hành trình Sông Hồng, radar phát hiện và chỉ thị mục tiêu được đặt trên khung gầm xe việt dã; xe chiến đấu bộ binh XCB-01; các UAV trinh sát, cảm tử, đa năng. Đặc biệt, máy bay huấn luyện TP-150 lần đầu ra mắt công chúng-chiếc máy bay đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam bởi một công ty Việt Nam là minh chứng sống động cho năng lực tự chủ và sự phát triển vượt bậc của CNQP Việt Nam.
Không chỉ tự chủ đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa Quân đội, CNQP Việt Nam còn chứng minh khả năng vươn ra thị trường quốc tế. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và cựu chiến binh Nam Phi Richard Hlophe khi tham dự Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, đã nhận định: “Tôi đánh giá rất cao nền CNQP của Việt Nam. Các loại vũ khí, khí tài mới của các bạn rất tiên tiến. Đó là lý do tại sao chúng tôi sẽ hợp tác với Việt Nam để cả hai bên có thể cùng nhau phát triển”. Qua triển lãm và trao đổi giữa các đoàn, Việt Nam đã ký kết hàng chục hợp đồng trị giá hàng trăm triệu USD; thiết lập hàng loạt thỏa thuận hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp quốc phòng đến từ những quốc gia có nền công nghiệp phát triển, đồng thời mở ra hướng phát triển mới là minh chứng sinh động đối với nền CNQP Việt Nam và Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam.
Thứ tư, ngành CNQP không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Với việc làm chủ công nghệ hiện đại và phát triển sản xuất trong nước, ngành CNQP góp phần quan trọng giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, tiết kiệm nguồn lực và tối ưu hóa ngân sách nhà nước. Nhiều sản phẩm quốc phòng không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu, tạo nguồn thu cho quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, ngành CNQP đã tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Các dự án và cơ sở sản xuất quốc phòng góp phần phát triển hạ tầng, cải thiện đời sống nhân dân ở các địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước. Trung bình mỗi năm, các doanh nghiệp Quân đội đã tạo ra khoảng 5% GDP và đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 40.000-50.000 tỷ đồng, bằng khoảng 25% đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, thành tựu của CNQP Việt Nam đã đạt được thời gian qua là toàn diện, vững chắc, có bước đột phá mạnh mẽ, đã và đang khẳng định vị thế của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng toàn cầu. Những luận điệu xuyên tạc thành tựu CNQP Việt Nam chỉ là những luận điệu lạc lõng, âm thanh “lạc nhịp”, phiến diện của thiểu số những kẻ mang định kiến và thiếu hiểu biết về Quân đội nhân dân Việt Nam và CNQP Việt Nam.
TCCS - Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường thì nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch càng có ý nghĩa cấp thiết.
Những tác động của bối cảnh mới đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mùa Xuân năm 1930 là dấu mốc lịch sử trọng đại, bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc. Đến nay, suốt 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, 38 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 33 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn phải đối mặt với nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá, công kích của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị. Không từ một thủ đoạn nào, bọn chúng ra sức gây nhiễu, tạo khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên, kích động, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm lung lạc niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Năm 1927, từ khi Đảng chưa ra đời, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định phải “giữ chủ nghĩa cho vững”(1), “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”(2) và chủ nghĩa chân chính, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tháng 10-1930, trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng ta chỉ rõ: “Giải thích cho công nhân mục đích và đường lối của Đảng Cộng sản trong các vấn đề liên quan đến cuộc sống của công nhân và thái độ đối với các sự kiện lớn diễn ra trong nước. Giải thích cho họ rằng, Đảng Cộng sản là Đảng của họ, vì vậy họ cần phải bảo vệ Đảng”(3). Đến năm 1960, tại Đại hội III, trong Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh: “Bất cứ trong tình hình nào, nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi đảng viên là phải bảo vệ Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, tỉnh táo đề phòng và kiên quyết đấu tranh chống mọi mưu đồ đả kích hoặc làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng bất kỳ trên lĩnh vực nào, và núp dưới hình thức nào”(4). Như vậy, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán: “Bảo vệ Đảng là công tác thường xuyên, luôn luôn gắn chặt với các mặt công tác xây dựng đảng trong mọi giai đoạn cách mạng, để bảo đảm cho tổ chức của Đảng được trong sạch và vững mạnh”(5).
Thời gian gần đây, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(6). Đặc biệt, năm 2022, cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự đánh giá cao, hưởng ứng tích cực của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như bạn bè, các chính đảng, chính trị gia và dư luận quốc tế. Cuốn sách trở thành tài liệu hết sức giá trị, phục vụ việc học tập, giáo dục lý luận chính trị, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hiện nay, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Song, cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường chúng ta kiên định đang và sẽ tiếp tục trải qua vô vàn khó khăn, thách thức. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra một trong những thách thức to lớn mà chúng ta phải đối mặt và giải quyết, đó là: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(7). Không những thế, lợi dụng tiến bộ của công nghệ thông tin, truyền thông trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nhiều biến động của tình hình thế giới, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh chống phá trên mọi mặt trận, trọng tâm là chĩa mũi nhọn tấn công chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng bằng hàng loạt âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc. Cụ thể:
Về đối tượng, đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta vô cùng đa dạng, phức tạp, có thể phân chia thành ba nhóm chính: (i) Một bộ phận những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn trên thế giới, bài xích tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; (ii) Lực lượng phản động, tàn dư của chế độ ngụy quyền trước đây đang sinh sống, lưu vong ở nước ngoài kết hợp với một số đối tượng chống đối, bất mãn ở trong nước. Nhóm này có số lượng đông đảo, manh động và chống phá trực diện, quyết liệt nhằm thực hiện âm mưu phá hoại công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; (iii) Một bộ phận cán bộ, đảng viên bất mãn, cơ hội, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Về phương thức, thủ đoạn, trong bối cảnh mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường tập trung: phủ nhận, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như giá trị khoa học, thời đại, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống phá, xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biển, đảo; lợi dụng hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động người dân tham gia các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội...
Về phương tiện, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thế lực thù địch triệt để tận dụng công cụ truyền thông, báo chí, không gian mạng để đẩy mạnh hoạt động chống phá về tư tưởng. Chúng tăng cường thực hiện nhiều chiêu thức khác nhau, như xuất bản tài liệu, ấn phẩm sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi...; thành lập trang web, blog, các kênh phát thanh truyền hình có chương trình tiếng Việt; tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội thi... thậm chí núp bóng danh nghĩa yêu nước, bảo vệ dân chủ, nhân quyền, vì dân tộc, vì đất nước, thúc đẩy hình thành các hội, nhóm, tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, lợi dụng quá trình “chuyển đổi số”, các thế lực thù địch đã số hóa các dữ liệu không có thật, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Đảng, lãnh đạo Đảng và Nhà nước...; thiết lập cơ sở dữ liệu, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn (Big Data)... để tạo ra các dữ liệu, tài liệu giả theo kiểu “có giá trị như thật”, “minh chứng lịch sử”, “nguồn gốc của mọi nguồn gốc”, “tài liệu mật”... nhằm chống Đảng và Nhà nước ta.
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đạt nhiều kết quả tích cực
Thời gian qua, nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị, cùng với sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã khắc phục, vượt qua được những khó khăn rất lớn, những tác động tiêu cực do dịch bệnh, thiên tai, bão lụt, hạn hán xảy ra. Đó là minh chứng sinh động, khẳng định tính ưu việt của chế độ; truyền thống đoàn kết, yêu nước, lòng nhân ái và ý chí kiên cường của nhân dân ta. Càng trong khó khăn, thử thách, truyền thống và ý chí đó càng được nhân lên gấp bội, là nguồn lực và động lực to lớn, không một thế lực nào có thể ngăn cản, để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, đất nước tiếp tục đi lên, dân tộc phát triển cường thịnh, trường tồn. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(8). Trong đó, phải kể đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được Đảng ta đặc biệt quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực. Cụ thể:
Thứ nhất, chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ngày càng được nâng cao. Nhờ vậy, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức đúng đắn sách lược của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quán triệt rõ, công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, đồng thời là trách nhiệm của toàn dân nhằm đấu tranh hiệu quả với những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần tạo nên sức mạnh tổng thể của cả hệ thống chính trị, kết hợp với sức mạnh của nhân dân. Trên cơ sở quán triệt nhận thức, tư duy, xác định rõ tính chất nguy hại và tác động tiêu cực của những quan điểm sai trái, thù địch đối với an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nhận diện rõ các quan điểm sai trái, thù địch để có chủ trương, biện pháp chỉ đạo phù hợp; phân định được sự khác biệt của quan điểm sai trái, thù địch với nhận thức lệch lạc, phiến diện, ý kiến phê bình, nhưng thiếu xây dựng. Từ đó, có cách thức phản biện khoa học, phương thức đấu tranh phù hợp, giải pháp áp dụng phát huy hiệu quả cao.
Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an dự Ngày hội Văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I năm 2023 _Nguồn: baokontum.com.vn
Thứ hai, sử dụng đa dạng giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Lấy giá trị thực tiễn làm phương thức đấu tranh, nhưng luôn bảo đảm tính khách quan, thuyết phục; đồng thời, sử dụng biện pháp đấu tranh mềm dẻo, cương quyết, nhưng dân chủ. Áp dụng biện pháp khoa học - kỹ thuật để nhận diện, đấu tranh và xử lý kịp thời thông tin vu khống, xuyên tạc, nội dung xấu, độc, luận thuyết sai trái (phủ nhận giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh...). Sử dụng hiệu quả công cụ pháp lý để bảo đảm tính tuân thủ, bình đẳng, khách quan trước pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm công cụ về thể chế để đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ ba, Đảng ta đã sử dụng các phương thức, giải pháp có tính bản lề, kết hợp “xây” và “chống”. Phương thức này bảo đảm các giá trị về tạo lập tinh thần cách mạng, có sự kết hợp với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Trong đó, “xây” là chính và “chống” là quan trọng, cấp bách, đã được quan tâm, thường xuyên triển khai thực hiện. Xác định rõ trọng tâm, cốt lõi về mặt bản chất, Đảng ta đã trưởng thành từ nhân dân và “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”(9). Do vậy, bằng nhiều phương thức khác nhau, Đảng ta đã xây dựng được niềm tin của nhân dân theo tinh thần “Dân tin thì Đảng còn và ngược lại”. Quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, xây dựng và củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, Đảng ta đã dựa vào nhân dân, thông qua sự ủng hộ, bằng sức mạnh của nhân dân để hình thành tổ chức và lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thông qua các diễn đàn, phương tiện truyền thông, người dân thẳng thắn bày tỏ quan điểm, tinh thần yêu nước, ủng hộ Đảng và chế độ. Trên các phương tiện truyền thông xã hội thời gian qua, nhiều tài khoản đã tham gia tích cực vào công tác này, như nhóm “Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc” với 91.468 thành viên; trang “Chống luận điệu xuyên tạc” có 44.000 người thích, 48.000 người theo dõi; trang “Tiếng nói thế hệ trẻ” có 14.392 người thích, 15.224 người theo dõi; trang “Thông tin chống phản động” có 149.000 người thích, 190.000 người theo dõi; trang “Chống phản động” có 189.349 người thích, 229.136 người theo dõi(10)...
Thứ tư, kết hợp cùng lúc nhiều phương thức, giải pháp, như đấu tranh, phản bác với nêu gương; tuyên truyền, phổ biến với giáo dục ý thức cách mạng, chủ nghĩa yêu nước; đấu tranh, phản biện với chứng minh, đối chứng, so sánh (“chứng cứ thật, giá trị thật”); đấu tranh, phản biện với sử dụng biện pháp mạnh (“xử lý không có vùng cấm”, “không chấp nhận lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm”, “trục lợi chính sách”).
Thẳng thắn nhìn nhận hạn chế, bất cập
Thời gian qua, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng, tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, tổ chức đảng và một số vấn đề khác trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chưa sâu sắc. Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên nên một bộ phận cán bộ, đảng viên lơ là, thiếu trách nhiệm, chưa thật sự coi trọng việc thực hiện nhiệm vụ được giao gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn đùn đẩy, sợ trách nhiệm, lợi dụng kẽ hở để tư lợi, vi phạm quy định của Đảng và Nhà nước; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo kiểu “tha hóa trong bí mật”, tác động xấu bằng hành vi tham nhũng, trục lợi chính sách(11).
Một số phương thức, giải pháp chưa thực sự hiệu quả, còn nặng tính hàn lâm, kinh điển, khi triển khai còn mang tính rập khuôn, máy móc, hiệu quả chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn của từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Phương thức tuyên truyền, đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa kịp thời, thậm chí phản ứng chậm với hành vi tiêu cực, xuyên tạc; một số giải pháp thiếu tính cụ thể, chưa phản ánh những vấn đề thực tiễn bằng trực quan sinh động, chưa kịp thời phản biện, đấu tranh bằng tấm gương người thật, việc thật; các minh chứng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng đôi khi chưa được cập nhật và phản ánh kịp thời nên tạo ra nhiều luồng dư luận, nhiều cách hiểu trái chiều khiến các thế lực thù địch có cơ hội xuyên tạc, bóp méo sự thật. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật của Nhà nước ở một số khâu, trong một số trường hợp còn chậm và cách thức triển khai chưa phù hợp(12).
Việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng. Vấn đề niềm tin của nhân dân đối với Đảng được xem là giá trị cốt lõi, quan trọng bậc nhất. Tuy nhiên, trên thực tiễn, một số nội dung, phương thức, giải pháp để “gieo niềm tin” từ nhân dân chưa đạt hiệu quả như mong muốn, như nêu gương trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa thật sự nổi bật, chưa đủ sức lan tỏa để quần chúng “nghe, nói, tin và làm theo”; sự phối hợp của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn lỏng lẻo và thiếu hiệu quả. Trên cơ sở chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, các cơ quan, đơn vị, địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo 35 và có sự phối hợp tương đối tốt; tuy nhiên, sự phối hợp này mới chỉ trong phạm vi hẹp, chưa có cơ chế ràng buộc rõ ràng nên hiệu quả phối hợp chưa cao.
Chưa phát huy được giá trị lịch sử của cha ông về bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức cán bộ. Việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong triển khai nhiệm vụ rất đáng khích lệ, song bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, tìm hiểu các giá trị được đúc kết từ truyền thống lịch sử dân tộc; từ đó, vận dụng linh hoạt, chọn lọc các phương thức, phù hợp với điều kiện và bối cảnh trong nước để việc triển khai đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn, Luật Hồi tỵ (1460 - 1497) Hồng Đức quy định 4 vấn đề của người đứng đầu địa phương là: “không được là người địa phương; không được lấy vợ là người địa phương; không được mua bán, nhận chuyển nhượng, tặng cho điền thổ ở địa phương; không được bổ nhiệm vợ, con, thân hữu làm quan ở địa phương”. Đây là những nội dung cần thiết, có nội dung phù hợp với tình hình phát triển ở nước ta hiện nay, song lại chưa được chọn lọc để đưa vào pháp luật hiện hành. Do vậy, thực tiễn đã xảy ra tình trạng “quyền anh quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây”, tạo điều kiện cho các thế lực phản động, thù địch lợi dụng để xuyên tạc, bôi nhọ...
Mặc dù Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, “về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, trong đó có chỉ đạo cụ thể về vấn đề hoàn thiện thể chế, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia, song quá trình này vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Đặc biệt, việc số hóa dữ liệu về Đảng, Nhà nước và nhân dân còn chậm, thiếu rất nhiều cơ sở dữ liệu (do lạm dụng chế độ bảo mật, không đưa lên cơ sở dữ liệu quốc gia, ngành, địa phương hoặc thiếu trách nhiệm chia sẻ cơ sở dữ liệu,...) chính là kẽ hở để các thế lực thù địch số hóa các dữ liệu giả, dùng công nghệ số để tích hợp, phân tích, tạo ra các dữ liệu xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật... hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Đoàn viên, thanh niên tham gia buổi sinh hoạt định kỳ ở Câu lạc bộ "Lý luận trẻ" bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của Tỉnh đoàn Hà Nam _Ảnh: TTXVN
Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và đổi mới phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Thời gian tới, để bảo đảm hiệu quả cao nhất, cần mạnh dạn hoàn thiện, bổ sung và đổi mới phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch qua một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Cấp ủy, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ chủ chốt phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Ðảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhận diện rõ các quan điểm sai trái, thù địch để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát với tình hình thực tế. Phát huy vai trò nòng cốt của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các đơn vị, địa phương. Xác định rõ, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, phản bác quan điểm sai trái thù địch không chỉ có bộ phận chuyên trách, mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân. Ban Chỉ đạo 35 cần xây dựng và ban hành “Chiến lược quốc gia về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch”.
Hai là, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, tiêu cực. Đảng phải tự cường, thực sự trong sạch, vững mạnh trên tất cả các mặt về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ... để có khả năng tự bảo vệ mình. Do vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống” trong xây dựng và thực hành đạo đức cách mạng; đẩy mạnh thực chất công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tránh việc triển khai theo kiểu hình thức.
Ba là, thực hiện bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bằng nhiều hình thức đa dạng, thiết thực, hiệu quả. Công tác này không được áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, chủ quan, duy ý chí, mà phải dựa trên sự tự giác, có trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thông tin phản bác phải được phân tích, luận giải có lý lẽ, dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan, tăng sức thuyết phục; nắm vững trình độ, nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý của từng nhóm đối tượng để có phương thức phù hợp. Cụ thể: (i) Sử dụng “người thật, việc thật” đấu tranh với các quan điểm phản động, sai trái, thù địch; cùng với lấy phẩm chất, đạo đức, hành động đúng đắn, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên phản bác lại luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống...; (ii) Phân biệt “phản động” với “yêu nước” thông qua nhận thức, tư duy, hành động của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở xây dựng “tư duy mở” về “phản biện”, “trái chiều”, nhưng mang tính tích cực, theo đó chấp nhận tư duy phản biện, đối lập tích cực, không được nâng quan điểm hoặc chụp mũ, đồng thời cần nhận thức và xác định lại chính xác “nội dung tích cực, thể hiện lòng yêu nước”, tránh thực hiện phương thức đấu tranh không phù hợp, dễ bị thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc trở thành tiêu cực, “tự diễn biến, tự suy thoái”, có thể biến chuyển thành phản động; (iii) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng việc nhận thức và áp dụng đúng đắn “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong thực tiễn, tránh việc lợi dụng nguyên tắc này để áp dụng theo kiểu độc quyền, tập trung, nhưng không dân chủ.
Bốn là, chú trọng và nâng cao hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Để thực hiện tốt phương thức này, trong thời gian tới phải thực hiện đồng thời các vấn đề: Quán triệt rõ, nhân dân đóng vai trò chủ thể, vị trí trung tâm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Đảng không ngừng chăm lo, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phổ biến, tuyên truyền, làm tốt công tác dân vận để nhân dân tin, hiểu, tự hào với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, xây dựng phương thức “giá trị pháp lý - chuẩn mực cao nhất” làm nền tảng cho việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ. Phương thức này muốn đạt hiệu quả cao nhất, thời gian tới cần thực hiện: Bảo đảm văn bản của Đảng phải đúng tinh thần Hiến pháp, pháp luật, không được cao hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật, theo đó, các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; thể chế hóa triệt để, đúng tinh thần, nội dung và cách thức từ văn bản của Đảng thành văn bản của Nhà nước. Dựa trên nền tảng này để tuyên truyền, giáo dục, đồng thời để áp dụng và xử lý theo quy định của Đảng và Nhà nước./.