1. Tình hình thế giới
và trong nước sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, chủ nghĩa xã hội trở
thành hệ thống trên thế giới. Các nước phát xít Đức, Ý, Nhật bị đánh bại còn đế
quốc Anh, Pháp tuy thắng trận nhưng đã suy yếu. Đế quốc Mỹ tận dụng các lợi
thế, nhanh chóng vươn lên cầm đầu phe tư bản chủ nghĩa, ra sức lôi kéo, tập hợp
lực lượng phản động để chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới. Do vậy, mâu thuẫn chi phối quan hệ quốc tế lúc này
là mâu thuẫn giữa các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ và hệ thống xã hội
chủ nghĩa do Liên Xô làm trụ cột với lực lượng đế quốc, phản cách mạng do Mỹ
đứng đầu.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã tác động,
cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các thuộc địa; làm
cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách
chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Mỹ công khai
ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Đế quốc Anh xuất
phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của
thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.
Trên thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó
với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bên trong,
“giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản hoành hành. Bên ngoài, giặc ngoại xâm
liên tục tấn công. Từ vĩ tuyến 16 trở ra là 20 vạn quân Tưởng, từ vĩ tuyến 16
trở vào có hơn 1 vạn quân Anh và hơn 6 vạn quân Nhật cùng nhiều đảng phái phản
động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập lại chính quyền tay
sai và cướp nước ta lần nữa. “Giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”đang đe
dọa vận mệnh dân tộc ta.
2. Chủ trương cứu vãn hòa bình của Đảng và Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp
đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung
Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây
nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm
các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng,
tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời hoà hoãn với
quân Tưởng để rảnh tay đối phó với quân Pháp, khi thì tạm thời hoà hoãn với
Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.
Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh,
giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập tự do cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp
định sơ bộ ngày 6/3/1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14/9/1946. Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của
Liên hợp quốc, nêu rõ thiện chí hoà bình, mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận
những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hoà bình. Đồng thời, Người
liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến
gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh cuộc
chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu
vãn hòa bình của chúng ta.
Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp
những thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16/12/1946, quân
Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946, chúng cho xe phá các
công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và
phố Yên Ninh. Ngày 18/12/1946, tướng Môlie gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm
đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường
phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu
các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển
sang hành động chậm nhất là sáng ngày 20/12/1946.
Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước hai con đường: một là
khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do
và độc lập. Tình thế đó buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân
ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí đứng lên chiến đấu, phát động cuộc
kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
II. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH RA “LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN”
QUYẾT TÂM CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC, BẢO VỆ TỔ QUỐC
Ngày 18 và 19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Thành phố
Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Chiều ngày 19/12/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên
Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày và
giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt
đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, đồng thời quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ
súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.
Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết ngày 19/12/1946) được phát đi khắp cả nước:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ
gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một
lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả
dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất;
động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc
kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ
thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (viết xong
ngày 12-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của
Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi
đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
III. HƯỞNG ỨNG LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN, CẢ DÂN TỘC TA
ĐOÀN KẾT MỘT LÒNG CHIẾN ĐẤU CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC, GIÀNH THẮNG LỢI VẺ
VANG
1. Chuyển đất nước vào thời chiến và chuẩn bị kháng chiến
lâu dài
Thủ đô Hà Nội, nơi có Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ
Chí Minh là nơi thực dân Pháp có ý định đánh úp cơ quan đầu não và tiêu diệt
lực lượng vũ trang của ta đã trở thành chiến trường chính trong những ngày đầu
kháng chiến toàn quốc. Sau đòn tiến công chủ động, đồng loạt và bất ngờ lúc 20
giờ ngày 19/12/1946, quân và dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường,
anh dũng, sáng tạo, quân và dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an
toàn cho cơ quan đầu não, tản cư, bảo đảm an toàn cho nhân dân; chuyển hàng
ngàn tấn máy móc, vật tư ra An toàn khu, tạo tiềm lực ban đầu cho kháng chiến.
Quân và dân Thủ đô đã đánh hàng trăm trận, làm tiêu hao nhiều sinh lực địch,
giam chân chúng dài ngày trong thành phố, tạo điều kiện để cả nước bước vào
chiến tranh, triển khai thế trận chiến đấu lâu dài.
Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân các đô thị ở Bắc vĩ tuyến
16 cũng giành được thắng lợi quan trọng. Quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định,
kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ. Đồng
thời, cùng với những cuộc chiến đấu trực tiếp với quân Pháp, chúng ta thực hiện
cuộc tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng, máy móc vào An toàn khu. Đến tháng
3/1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được
chuyển lên Việt Bắc an toàn. Việt Bắc trở thành Thủ đô của cuộc kháng chiến
toàn quốc. Ở các địa phương cũng diễn ra việc di chuyển cơ quan vào các vùng
nông thôn hoặc những nơi rừng núi, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc giữa
các địa phương và Trung ương ở chiến khu Việt Bắc. Nhân dân các vùng có chiến
sự cũng triệt để thi hành chính sách “vườn không nhà trống”, tản cư ra vùng tự
do.
Chỉ sau một thời gian ngắn, mọi hoạt động của đất nước đã chuyển
hướng theo hoàn cảnh thời chiến và phục vụ kháng chiến lâu dài. Cuộc chiến đấu oanh liệt, sáng tạo của quân, dân Thủ đô Hà Nội và
của cả nước trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến đã giáng một đòn mạnh
vào chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và ý chí xâm lược của kẻ thù, làm tiền
đề vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến.
2. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào
sức mình là chính; vừa kháng chiến vừa kiến quốc, giành thắng lợi vẻ vang
Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp
thời chuyển cả nước vào thời chiến, xây dựng thực lực và thế trận chiến tranh
nhân dân. Căn cứ địa kháng chiến được củng cố, đời sống đồng bào dần ổn định,
bước đầu tổ chức lại sản xuất. Hoạt động đối ngoại được tăng cường làm cho nhân
dân tiến bộ thế giới, trước hết là nhân dân Pháp hiểu biết về cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Về phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi
được tăng cường lực lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện
đòn tấn công quyết định để sớm kết thúc chiến tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ
Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành
quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não, tiêu diệt quân chủ lực, phá
tan căn cứ kháng chiến của ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương
Đảng và tinh thần sáng tạo, quyết tâm cao, quân và dân ta chiến đấu ngoan
cường, giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947,
làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp,
mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến.
Không thể sớm kết thúc chiến tranh theo ý định, các nhà cầm quân
Pháp buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người
Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng thời tiến hành
“Chiến tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Trước âm mưu
của địch, chúng ta không ngừng chiến đấu, phối hợp đấu tranh vũ trang với đấu
tranh kinh tế và chính trị; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố thế
trận chiến tranh nhân dân, xây dựng tiềm lực kháng chiến.
Đến năm 1950, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi
mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ
phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở
rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các
nước xã hội chủ nghĩa. Sau 29 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân dân ta đã làm
nên thắng lợi quan trọng, tạo ra bước ngoặt căn bản, đưa cuộc kháng chiến của
quân và dân ta bước sang giai đoạn phản công và tiến công. Quân Pháp lui dần về
thế phòng ngự.
Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông Dương của thực dân Pháp,
đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến
này nhằm thực hiện âm mưu ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á
và sẵn sàng thay Pháp để kéo dài chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội toàn
quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng
Việt Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp
Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế
tiến công chiến lược, quân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng trên
các chiến trường như Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,… Chiến tranh nhân dân phát
triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong khi đó, thế và lực của
cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, lực lượng vũ trang ba thứ quân được
tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng vững mạnh, hậu phương được củng cố là chỗ
dựa, góp phần quan trọng vào thắng lợi của tiền tuyến.
Hòng xoay chuyển tình thế, dựa vào viện trợ Mỹ, Pháp lập kế hoạch
Nava nhằm lấy lại quyền chủ động, tiến tới tiêu diệt bộ đội chủ lực ta để kết
thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trước sự chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung
ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh, sự chiến đấu kiên cường dũng cảm của quân và dân
ta, kế hoạch trên bị thất bại, buộc Nava phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên
Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm khổng lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt
Minh”. Nhưng sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân ta đập tan cố
gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp, tạo nên “cột mốc bằng vàng” trong lịch
sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công Chiến lược
Đông - Xuân 1953-1954, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao đi đến
ký kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam
bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
*
* *
Khi đất nước ta mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì
lại rơi vàotình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minhnhận định đúng tình hình, đưa ra đường lối đúng đắn, phát động
toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành được thắng
lợi vẻ vang. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta đang ra
sức phấn đấu thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh đất
nước sau 30 năm đổi mới đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, nhưng bên cạnh
những thuận lợi cơ bản, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến là dịp để chúng ta ôn
lại và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân
tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
(NGOCKY)
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trả lờiXóa