Kinh tế tư nhân (KTTN), là thành
phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. KTTN tồn
tại dưới nhiều hình thức đa dạng xét về quy mô và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất như: Kinh tế hộ, kinh tế trang trại, tổ hợp sản xuất, doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Căn cứ vào tính chất sở
hữu, KTTN được chia thành hai dạng: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân. Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn quan
tâm phát triển và coi trọng các thành phần kinh tế, trong đó có KTTN, bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Để
phát huy hơn nữa vai trò của KTTN, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, đã ban hành
Nghị quyết số 10-NQ/TW “về phát triển KTTN trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”. Nghị quyết là bước tiếp nối và phát triển của
Nghị quyết số 14-NQ-TW ngày 18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa IX về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
KTTN. Việc ra đời Nghị quyết thể hiện đánh giá đúng của Đảng đối với vai trò và
tầm quan trọng của khu vực KTTN trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) đất
nước giai đoạn tới, đặc biệt là đối với việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện ba đột phá chiến lược; Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực hội
nhập quốc tế.
NHỮNG
THÀNH TỰU NỔI BẬT
Qua 15 năm thực hiện,
Nghị quyết số 14-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX “Về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN”, đã
góp phần quan trọng thúc đẩy KTTN phát triển nhanh và đóng vai trò ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời góp phần hình thành, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một
là, nhận thức về vị trí, vai
trò của KTTN đã có những bước tiến quan trọng, ngày càng tích cực hơn. Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách từng bước được hoàn thiện. Quyền tài sản, quyền
tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức được thể chế hóa và được pháp luật bảo
vệ. Phương thức quản lý của Nhà nước đối với KTTN được đổi mới phù hợp hơn với
cơ chế thị trường.
Hai là, KTTN đã phát triển trên nhiều phương diện;
hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; bước đầu đã hình thành được một số
tập đoàn KTTN có qui mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên
thị trường trong nước và quốc tế.
Trong những năm qua, vai
trò, vị trí của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. KTTN ngày càng
đóng góp lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho sản xuất kinh doanh,
đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân
sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã
hội, giải quyết các vấn đề xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. “KTTN liên
tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 39 - 40% GDP thu hút khoảng
85% lao động trong nền kinh tế”[1];
“tỷ trọng nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân trong cơ cấu tổng lượng vốn
đầu tư xã hội tăng qua các năm: năm 2002 chiếm 25,3%, năm 2010 chiếm 36,1%, năm
2015 chiếm 38,7%”[2].
Ba là, đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, có
khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng, không ngừng nâng cao năng lực kinh
doanh và quản trị doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đạo đức,
văn hóa kinh doanh của doanh nhân dần được nâng lên.
Bốn là, mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của
các tổ chức cơ sở đảng và phát triển đảng trong khu vực KTTN được cấp ủy đảng
quan tâm đổi mới, hoàn thiện; đảng viên được làm kinh tế tư nhân và chủ doanh
nghiệp của tư nhân được thí điểm kết nạp vào đảng.
Năm là, hoạt động giám sát, phản biện chính sách,
vai trò tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người
sử dụng lao động của của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội, xã hội - nghề nghiệp được quan tâm đổi mới, nâng cao hiệu quả.
HẠN
CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
Bên cạnh sự phát triển
nhanh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, KTTN còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém.
Một là, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
khuyến khích KTTN phát triển còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ.
Các quy định pháp luật
và các cơ chế, chính sách về tài chính, tín dụng, thuế, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, môi trường, về lao động,
tiền lương, giáo dục đào tạo, về
dịch vụ công, về khoa học và công nghệ, về thương mại và hội nhập
quốc tế, …để khuyến khích KTTN phát triển còn chưa đồng bộ, bất cập, thiếu linh
hoạt và chưa được thực hiện nghiêm. Môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều hạn
chế, tiềm ẩn rủi ro cao, thiếu sự an toàn và tính minh bạch. Kinh tế vĩ mô chưa
ổn định vững chắc, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định. Nguy cơ lạm phát,
tỷ giá, lãi suất cao trở lại, thiếu ổn định còn lớn. Bội chi ngân sách nhà nước
và nợ công cao; đầu tư công kém hiệu quả. Rủi ro an toàn hệ thống tài chính còn
cao. Trật tự và kỷ luật thị trường còn nhiều yếu kém; vi phạm pháp luật và cạnh
tranh không lành mạnh diễn ra khá phổ biến trên thị trường. Sự minh bạch, công
khai trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và quản lý của Nhà nước còn nhiều
hạn chế.
Hai là, KTTN chưa đáp ứng được vai trò là một động
lực.
Tốc độ tăng trưởng GDP
của KTTN có xu hướng giảm trong những năm gần đây. “Giai đoạn 2003-2010: 11,93
%/năm; giai đoạn 2011-2015: 7,54%/năm”[3]. KTTN có quy mô nhỏ,
chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh. “Số lượng các hộ gia đình, cá thể
chiếm khoảng 95% tổng số chủ thể KTTN”[4].
Trình
độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh thấp. Phần lớn doanh
nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu và phụ thuộc vào nhập khẩu “số lao động có kỹ
thuật chuyên môn chỉ khoảng 7%; đầu tư cho đổi mới thiết bị, công nghệ chiếm 3%
doanh thu”[5].
Quản trị của các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể trong KTTN còn rất
yếu, hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa thực hiện nghiêm theo quy định
của pháp luật, hoạt động thiếu minh bạch.
KTTN có cơ cấu ngành
nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác
khoảng 81% cho các hoạt động thương mại và dịch vụ nhỏ, lẻ phục vụ người tiêu
dùng; phần còn lại khoảng 19% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.
Khả năng tham gia chuỗi giá trị sản xuất trong nước, khu vực và toàn cầu thấp.
Tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động cao, “bình quân giai đoạn 2007-2015
là 45% tổng số doanh nghiệp còn hoạt động trong nền kinh tế. Năm 2016 có 73.130
doanh nghiệp chấm dứt hoạt động và 20.345 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động,
trong khi số doanh nghiệp thành lập mới là 110.100 doanh nghiệp”[6].
Ba
là, vi
phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong KTTN còn khá phổ biến. Nhiều
doanh nghiệp có số vốn ít nhưng đăng ký nhiều ngành nghề kinh doanh, không xác
định rõ mục tiêu sản xuất kinh doanh, xây dựng dự án đầu tư thiếu tính khả thi.
Một số doanh nghiệp của tư nhân được lập ra để tiến hành các hoạt động bất hợp
pháp như mua bán hóa đơn khống, buôn lậu,... Tình trạng gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, thương hiệu xảy ra phổ biến.
Bốn là, nhiều quy định của pháp luật về KTTN chưa
được thực hiện nghiêm; nhất là lĩnh vực đầu tư, đất đai, tín dụng, thuế và hải
quan. Môi trường đầu tư kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn rủi
ro cao và thiếu minh bạch. Quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận
các cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa KTTN và các
thành phần kinh tế khác; chi phí trung gian, không chính thức còn nhiều; vẫn
còn biểu hiện của cơ chế xin - cho.
Những hạn chế, yếu kém
nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là: Chưa có sự
thống nhất cao về lý luận và nhận thức đối với phát triển KTTN; thể chế về phát
triển doanh nghiệp, doanh nhân còn nhiều bất cập. Chưa tạo được bước đột phá
trong đổi mới, hoàn thiện thể chế KTTN và cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh. Hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển
KTTN đạt hiệu quả chưa cao và còn chưa nghiêm túc. Xuất phát điểm phát triển và
năng lực nội tại của KTTN thấp.
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU
Để phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết đã xác
định 5 nhiệm vụ giải pháp chủ yếu.
Một là, thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng, hành động
trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển KTTN. Đây là nhiệm vụ
giải pháp hàng đầu nhằm tạo sự đồng thuận cao về nhận thức, tư tưởng, hành động
trong toàn xã hội, tạo điều kiện cho KTTN phát triển.
Trong đó, cần tập trung
nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo mọi điều kiện phát triển KTTN,
về chức năng của Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập.
Tổng kết một số mô hình
doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay để có cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo. Phát huy
thế mạnh và tiềm năng to lớn của KTTN trong phát triển KT-XH phải đi đôi với
khắc phục triệt để những mặt trái phát sinh trong quá trình phát triển KTTN.
Phòng, chống có hiệu quả
các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, cơ chế,
chính sách đối với KTTN.
Hai là, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi
cho phát triển KTTN. Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW
của Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN” việc tạo lập “môi trường đầu
tư, kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế”[7].
Vì vậy, tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi để KTTN
phát triển có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong đó, cần triển khai
thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức
hợp lý, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và thực hiện ba đột phá chiến lược. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách
tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đẩy mạnh
cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, hạn chế sự gia tăng nợ công, lấn át
đầu tư của khu vực tư nhân.
Hoàn thiện cơ chế, chính
sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của KTTN theo cơ chế thị
trường: Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp
pháp, quyền và nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp
luật. Mọi biện pháp khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTN phải phù hợp với
nguyên tắc thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của KTTN, không biến
các cơ chế, chính sách hỗ trợ thành bao cấp, phục vụ “nhóm lợi ích” dưới mọi
hình thức.
Mở rộng khả năng tham
gia thị trường và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng. Rà soát, xoá bỏ các cơ chế,
chính sách tạo ra bất bình đẳng giữa KTTN và các thành phần kinh tế khác, giữa
các chủ thể của KTTN, nhất là trong cạnh tranh và tiếp cận nguồn lực xã hội,
các yếu tố sản xuất, cơ hội kinh doanh, tham gia thị trường, mà trọng tâm là
đất đai, vốn, nguồn lực của Nhà nước. Tăng cường tính minh bạch đối với độc
quyền nhà nước, độc quyền doanh nghiệp và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bảo
đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Xóa bỏ các chính sách hành chính can
thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh, nhất là giá cả hàng hóa,
dịch vụ.
Tạo điều kiện cho KTTN
tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua góp vốn, mua
cổ phần để hình thành các tổ chức sản xuất kinh doanh hỗn hợp, có năng lực tài
chính, quy mô hoạt động lớn, công nghệ và quản trị hiện đại, nhất là sớm phát
triển các tập đoàn KTTN đa sở hữu có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong
nước và quốc tế.
Phát triển nhanh hệ
thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và tạo
điều kiện thuận lợi cho KTTN tiếp cận, sử dụng thuận lợi, bình đẳng với chi phí
hợp lý, bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Khẩn trương hoàn thiện
cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai, quản lý tài nguyên và môi trường tạo
điều kiện thuận lợi cho KTTN tiếp cận đất đai, các nguồn tài nguyên một cách
minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường, phục vụ sản xuất kinh doanh
Ba là, hỗ trợ KTTN đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
Khuyến khích KTTN đầu tư
vào các hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ
tiên tiến, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động.
Đẩy mạnh thực hiện chiến
lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực với hệ thống chính sách, giải pháp
đồng bộ. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Chú trọng xây dựng, nâng cao văn hóa doanh nghiệp và đạo đức doanh nhân.
Khuyến khích, động viên
và lan tỏa tinh thần, ý chí khởi nghiệp, kinh doanh và đổi mới, sáng tạo trong
toàn xã hội, nhất là cộng đồng doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu và chữ tín
trong kinh doanh...
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Trong đó, tập trung xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn và phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, tư tưởng chính trị vững
vàng, trách nhiệm cao và liêm chính.
Tăng cường hiệu lực,
hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các
bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với KTTN nhưng phải bảo đảm
không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý
đối với người dân và doanh nghiệp. Phòng, chống, xoá bỏ mọi biểu hiện của “chủ
nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi pháp
luật, cơ chế, chính sách đối với KTTN.
Nâng cao năng lực tổ
chức quản lý nhà nước về KTTN. Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo
bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hoá, rút ngắn thời
gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký
kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố
tụng, xét xử, thi hành án dân sự, kinh tế, phá sản.
Hoàn thiện và công khai,
minh bạch hệ thống thông tin KT-XH, cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật,
các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để
tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận khai thác và sử dụng.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với KTTN
Đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong khu vực
KTTN phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tăng cường chỉ
đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao
trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Có giải pháp thực hiện chủ
trương phát triển đảng trong khu vực KTTN. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết
việc thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển KTTN; bảo đảm giữ nghiêm
kỷ luật, kỷ cương của Đảng trong khu vực KTTN.
Phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp
trong phát triển KTTN. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp, làm tốt vai trò tổ chức đại diện, tích cực phối hợp với các cơ
quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh
doanh, đào tạo, kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên./.
- NVK -
[1] Đảng Cộng sản Việt nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 89.
[2] Ban
Tuyên giáo Trung ương (2017), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội, tr. 36.
[3] Ban
Tuyên giáo Trung ương (2017), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội, tr. 57.
[4] Ban
Tuyên giáo Trung ương (2017), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội, tr. 57.
[5] Ban
Tuyên giáo Trung ương (2017), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội, tr. 60.
[6] Ban
Tuyên giáo Trung ương (2017), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội, tr. 65.
[7] Đảng
Cộng sản Việt nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII, NXB Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.
92.
Bài viết rất hay, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa