Mới đây, một vài
người được gắn mác “chuyên gia” đăng đàn ở một cơ quan truyền thông nước ngoài
với cách đưa thông tin sai trái, phiến diện, thiếu thiện chí về Việt Nam, nhận
định rằng: Nền kinh tế Việt Nam đã suy thoái năm thứ 10 liên tiếp.
Rằng đang có một
làn sóng tháo chạy khỏi nền kinh tế Việt Nam: Nhà đầu tư nước ngoài bỏ đi, người
dân thì chuyển hết tiền ra nước ngoài. Các “chuyên gia” trên cho rằng, lý do là
vì nhà đầu tư nước ngoài và người dân đã mất hết niềm tin vào nền kinh tế Việt
Nam. Từ đó họ hù dọa: Việt Nam sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, siêu
lạm phát và vỡ nợ...
Nực cười thay, những nhận định nêu trên trái ngược hoàn toàn với thực tế đất nước và những dự báo lạc quan của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tổ chức nghiên cứu thị trường, các tờ báo uy tín trên thế giới đánh giá về kinh tế Việt Nam.
Trang mạng Bluenotes.anz.com ngày 26-8 đăng bài phân tích của ông Khoon Goh, Trưởng bộ phận nghiên cứu châu Á thuộc Ngân hàng ANZ (Ngân hàng Australia và New Zealand) cho rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 6,8% trong hai năm 2018 và 2019. Đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục được duy trì nhờ lĩnh vực công nghiệp nhộn nhịp và các cơ sở sản xuất liên tục được mở rộng dựa trên dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ông Khoon Goh cho rằng, các nước trong khu vực bắt đầu nhận thấy ảnh hưởng từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, mà ví dụ rõ nhất là các đơn hàng xuất khẩu cũng như chỉ số quản lý thu mua của ngành sản xuất (PMI) đã bị cắt giảm. Tuy nhiên, Việt Nam dường như nằm ngoài xu hướng của khu vực. Chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam vẫn vững chắc và thậm chí còn giành được các đơn hàng xuất khẩu mới. Nhìn chung, thương mại toàn cầu đang gặp thách thức vì chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng. Tuy nhiên, so với các nước khác, Việt Nam có thể bị tác động ít hơn.
Nực cười thay, những nhận định nêu trên trái ngược hoàn toàn với thực tế đất nước và những dự báo lạc quan của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tổ chức nghiên cứu thị trường, các tờ báo uy tín trên thế giới đánh giá về kinh tế Việt Nam.
Trang mạng Bluenotes.anz.com ngày 26-8 đăng bài phân tích của ông Khoon Goh, Trưởng bộ phận nghiên cứu châu Á thuộc Ngân hàng ANZ (Ngân hàng Australia và New Zealand) cho rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 6,8% trong hai năm 2018 và 2019. Đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục được duy trì nhờ lĩnh vực công nghiệp nhộn nhịp và các cơ sở sản xuất liên tục được mở rộng dựa trên dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ông Khoon Goh cho rằng, các nước trong khu vực bắt đầu nhận thấy ảnh hưởng từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, mà ví dụ rõ nhất là các đơn hàng xuất khẩu cũng như chỉ số quản lý thu mua của ngành sản xuất (PMI) đã bị cắt giảm. Tuy nhiên, Việt Nam dường như nằm ngoài xu hướng của khu vực. Chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam vẫn vững chắc và thậm chí còn giành được các đơn hàng xuất khẩu mới. Nhìn chung, thương mại toàn cầu đang gặp thách thức vì chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng. Tuy nhiên, so với các nước khác, Việt Nam có thể bị tác động ít hơn.
Trước đó, nhật
báo The Peninsula Qatar của Qatar ngày 12-8 có bài viết “Việt Nam nổi lên thành
“con hổ” kinh tế mới của châu Á”. Bài báo trích dẫn đánh giá của Ngân hàng
trung ương Qatar (QNB) khẳng định rằng, con hổ mới nhất của châu Á hiện nay là
Việt Nam, với những số liệu cập nhật cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang tăng
trưởng mạnh trong năm 2018, trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhất thế giới. Các chuyên gia của QNB phân tích một loạt chỉ số và kết luận
nền kinh tế Việt Nam đang phát triển bùng nổ, với GDP trong 6 tháng đầu năm
2018 tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2017. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
đang dẫn đầu với mức sản lượng trong 6 tháng đầu năm tăng 13,1% so với cùng kỳ
năm trước. Theo các nhà phân tích của QNB, sự bùng nổ trong ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo của Việt Nam khiến xuất khẩu tăng vọt. Xuất khẩu hàng hóa
trong nửa đầu năm 2018 tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước và cao hơn mức 17%
của cả năm 2017.
Thành công của
công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu đạt được là nhờ khả năng của Việt
Nam trong thu hút các dòng vốn lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Dòng vốn
FDI vào Việt Nam đang bùng nổ với giá trị ước tính đạt 13 tỷ USD trong nửa đầu
năm 2018, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Nhận thấy Việt Nam là môi trường đầu
tư đầy thuận lợi nên các công ty công nghệ trên thế giới cũng đang đổ vốn với tốc
độ rất nhanh vào Việt Nam. Theo Báo The Economist, Samsung đã đầu tư vào Việt
Nam tổng cộng 17 tỷ USD với những nhà máy sản xuất gần 1/3 lượng sản phẩm của tập
đoàn này trên toàn cầu. Hiện nay, ước tính trong số 10 chiếc điện thoại thông
minh trên thế giới thì sẽ có một chiếc có xuất xứ từ Việt Nam.
Nghiên cứu gần đây của nhóm chuyên gia thuộc Viện Brookings tại Mỹ nhấn
mạnh rằng khả năng xây dựng trên những nền tảng kinh tế vững chắc của Việt Nam
là thông qua các chính sách hiệu quả, thực sự làm cho Việt Nam vượt hơn hẳn các
nước khác.
Những nhận định
trên hoàn toàn đúng với nhận định của các tổ chức kinh tế, tài chính uy tín nhất
trên thế giới. Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục cải
thiện. WB dự báo mức tăng GDP năm 2018 của Việt Nam là 6,8%. Ông Ousmane Dione,
Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cho rằng, tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng
trong năm 2017 và nửa đầu năm 2018 đang tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp
tục tiến lên. Thậm chí, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) rất lạc quan, dự báo
về tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2018 ở mức 7,1%. Trong khi đó, với các quốc
gia Đông Nam Á, ADB lại cho rằng, tăng trưởng chung có thể chỉ đạt 5,2% cho cả
năm 2018 và 2019.
Một vài người được
gọi là "chuyên gia" đã cố thổi phồng các nguy cơ lạm phát tại Việt
Nam, rồi so sánh với các nước siêu lạm phát hàng triệu % trên thế giới. Tuy
nhiên, thực tế, theo Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thì chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) bình quân 8 tháng năm 2018 tăng 3,52% so với bình quân cùng kỳ
năm 2017. CPI tháng 8-2018 tăng 2,59% so với tháng 12-2017 và tăng 3,98% so với
cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 8 tháng năm 2018 tăng 1,38% so với
bình quân cùng kỳ năm 2017.
Tại kỳ họp thường
kỳ Chính phủ tháng 8 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá chỉ số giá
tiêu dùng năm 2018 sẽ không tăng quá 4%, theo đúng chỉ tiêu mà Quốc hội giao.
Như thế, mức tăng CPI của Việt Nam vẫn ở trong giới hạn an toàn.
Ông Maxfield
Brown, chuyên gia cao cấp của Công ty tư vấn kinh doanh Dezan Shira &
Associates tại TP Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng tôi đang theo dõi tình hình lạm
phát của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay thì lạm phát cao vẫn chưa xảy
ra”. Bà Marie Diron, Giám đốc điều hành của Công ty tài chính Moody Investors
Service tại Singpore cũng khẳng định: “Hiện tại, áp lực lạm phát của kinh tế Việt
Nam là chưa đáng kể.”
Hiện nay, các định
chế tài chính và các ngân hàng trên thế giới đều có cái nhìn lạc quan về nền
kinh tế Việt Nam. Với mức tăng trưởng kinh tế tới 7,08% trong 6 tháng đầu năm
2018, nền kinh tế Việt Nam rất hấp dẫn và các định chế tài chính, ngân hàng quốc
tế sẵn sàng cho Chính phủ cũng như các doanh nghiệp của Việt Nam vay vốn.
Chủ tịch ADB
Takehiko Nakao đánh giá cao tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam thời gian qua,
kinh tế vĩ mô ổn định, nợ công/GDP đã giảm xuống. Theo ông Tekehiko Nakao, Việt
Nam đã tiếp cận được nhiều nguồn vốn quốc tế và ADB vui mừng được cung cấp các
khoản vay cho Việt Nam.
Trong cuộc gặp hồi
tháng 6-2018 với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó chủ tịch WB, bà Victoria
Kwakwa đánh giá rất cao tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bà Victoria
Kwakwa cho biết WB đang nghiên cứu để giúp các tập đoàn lớn của Việt Nam có thể
vay vốn của WB mà không phải đáp ứng các điều kiện như khi quốc gia vay. Bà
Kwakwa mong muốn sẽ tạo điều kiện để Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các thành phố
khác của Việt Nam cũng tiếp cận được vốn của WB.
Trên thế giới có
3 công ty lớn hoạt động trong lĩnh vực đánh giá xếp hạng tín nhiệm tín dụng (gọi
là Big Three, chiếm 95% thị phần xếp hạng tín dụng trên thế giới) là: Moody’s,
Fitch Ratings và Standard&Poor. Khi các "ông lớn" này đánh sụt hạng
mức tín nhiệm của quốc gia hay doanh nghiệp nào thì các tổ chức tín dụng lớn
trên thế giới sẽ hạn chế cho đối tượng đó vay hoặc thậm chí không cho vay nếu
có thứ hạng thấp. Khi quốc gia bị đánh sụt hạng mức tín nhiệm thì việc mượn nợ
quốc tế bằng phát hành trái phiếu chính phủ cũng khó thực hiện do nhà đầu tư
quay lưng. Vì đơn giản, khi bị đánh sụt hạng mức tín nhiệm thì quốc gia đó bị xếp
vào loại khó trả nợ.
Trong thời gian
qua, không phải một mà rất nhiều tổ chức có uy tín trên thế giới đều đánh giá
tích cực về xếp hạng tín nhiệm nợ của Việt Nam. Cụ thể, mới nhất, ngày 10-8,
Moody's đã nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ B1 lên Ba3 và thay đổi triển vọng
từ "ổn định" sang "tích cực". Theo thông báo của Moody’s,
việc nâng hạng lên Ba3 dựa trên nhận định về tiềm năng tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ, được thúc đẩy nhờ sử dụng ngày càng hiệu quả lao động và vốn trong nền kinh
tế. Kỳ hạn trái phiếu chính phủ dài và sự giảm phụ thuộc vào nợ nước ngoài cho
thấy sự ổn định của kinh tế Việt Nam và gánh nặng nợ giảm dần. Cấu trúc nợ
chính phủ của Việt Nam cũng giúp hạn chế ảnh hưởng từ các cú sốc tài chính.
Moody’s cũng bày
tỏ lạc quan về quá trình xử lý nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam, nhất là việc
trích lập dự phòng đối với trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành. Moody’s nhận
xét một số ngân hàng Việt Nam đã có tiến bộ đáng kể trong xử lý nợ xấu và cho rằng
đây là một điểm tích cực đối với tín nhiệm của ngành ngân hàng bởi quá trình
này giúp cải thiện chất lượng tài sản và tháo gỡ rào cản đối với lợi nhuận của
ngân hàng.
Trước đó, cuối
tháng 5-2018, Fitch Ratings (Mỹ) cũng thông báo nâng xếp hạng nhà phát hành nợ
dài hạn bằng ngoại tệ (IDR) của Việt Nam từ mức “BB-” lên “BB” với triển vọng “ổn
định”. Hãng xếp hạng này cũng nhận xét khả năng hấp thụ sốc từ bên ngoài của Việt
Nam đã được cải thiện, thể hiện ở việc dự trữ ngoại hối tăng từ 37 tỷ USD cuối
năm 2016 lên 49 tỷ USD năm 2017, tương đương 2,5 tháng nhập khẩu, nhờ dòng vốn
vào mạnh và thặng dư tài khoản vãng lai. Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) Việt Nam Lê Minh Hưng, trong 6 tháng đầu năm, NHNN đã mua vào khoảng hơn
11 tỷ USD, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước lên khoảng 63,5 tỷ USD. Fitch cũng nhận
xét, mức cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam có được nhờ cơ chế ngoại hối
linh hoạt. Fitch dự báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 66 tỷ
USD vào cuối năm 2018, tương đương 3,1 tháng nhập nhẩu.
Bên cạnh đó,
Fitch nhận xét dòng vốn vào mạnh và khả năng tích lũy đã giúp thanh khoản hệ thống
ngân hàng tăng. Điều này được thể hiện ở việc lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ
hạn 5 năm giảm khoảng 150 điểm cơ bản kể từ cuối năm 2017 xuống 2,6% hiện nay.
Fitch cũng cho rằng Chính phủ Việt Nam đã thực hiện cam kết duy trì mức nợ công
và cải cách doanh nghiệp nhà nước. Fitch ước tính tổng nợ chính phủ giảm về
52,4% GDP năm 2017 từ mức 53,4% năm 2016, trong khi nợ chính phủ bảo lãnh giảm
về 9% GDP vào cuối năm 2017 từ mức 10,3% cuối năm 2016. Nhờ đó, nợ công của Việt
Nam giảm còn 61,4% GDP cuối năm 2017 từ mức 63,6% cuối năm 2016, và dưới mức trần
65% GDP. Việc tỷ lệ nợ công hạ là nhờ nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa.
Theo ước tính của
Fitch, nợ chính phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm và về dưới mức 50% GDP vào
năm 2019, nhờ nguồn thu từ chương trình cổ phần hóa. Tổ chức này cũng dự báo
thâm hụt ngân sách của Việt Nam sẽ giảm về mức 4,6% trong năm 2018 từ mức 4,7%
năm 2017. Tại cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8-2018 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc chỉ đạo phấn đấu giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước năm 2018 là dưới
3,7% GDP, năm 2019 là khoảng 3,6%.
Ông Ousmane
Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam, rất ấn tượng với sức mua của người
dân Việt Nam. “Tại Hà Nội, chúng ta thấy các trung tâm mua sắm như Aeon Mall,
Royal City và Lotte có rất đông các gia đình vào dịp cuối tuần. Các gia đình
trung lưu hiện nay có thời gian và tiền bạc cho các hoạt động giải trí”, ông
Ousmane Dione đánh giá.
Nghiên cứu của
Công ty tư vấn Boston Consulting Group (BCG) chỉ ra rằng, tầng lớp trung lưu
đang phát triển với tốc độ nhanh chóng ở Việt Nam. Theo đó, tầng lớp trung và
thượng lưu với mức thu nhập từ 714USD/tháng trở lên ở Việt Nam tăng lên mức 33
triệu người trong thời gian 2014-2020. Trong khi đó, Công ty nghiên cứu thị trường
Nielson ước tính, dân số thuộc tầng lớp trung lưu của Việt Nam sẽ đạt mức 44
triệu người vào năm 2020 và 95 triệu người vào năm 2030.
Thêm minh chứng
cho mức sống tăng lên khá nhanh của người dân Việt Nam, Solidiance-công ty tư vấn
chiến lược hàng đầu tại châu Á, giai đoạn 2012-2016, Việt Nam là quốc gia có
nhu cầu tiêu thụ ô tô tăng trưởng nhanh nhất khối ASEAN. Nếu tính riêng quãng
2015-2016, Việt Nam có nhu cầu tiêu thụ ô tô đạt tăng trưởng 36%, trong khi
Indonesia chỉ tăng nhẹ 5%, Thái Lan giảm 4% và Malaysia giảm 13%.
Với tất cả những
thực tế đó của kinh tế Việt Nam, có thể thấy những cảnh báo về nguy cơ đổ vỡ
kinh tế, về siêu lạm phát, về vỡ nợ, về một cuộc tháo chạy của các nhà đầu tư,
về việc người dân khủng hoảng niềm tin... là những nhận xét hết sức phi lý,
không khách quan của những người thiếu thiện chí, những kẻ cơ hội chính trị khi
đánh giá về tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam. Những cố gắng bôi nhọ tình hình
kinh tế-xã hội Việt Nam theo kiểu đó chỉ làm cho những người tham gia tự biến
mình trở thành những người hàm hồ, không đáng tin.
Các thế lực thù địch rất điên cuồng chống phá Việt Nam; chúng dùng mọi thủ đoạn để chống phá; chúng ta phải hết sức tỉnh táo trước luận điệu sai trái của kẻ thù để không bị mắc bẫy của chúng.
Trả lờiXóa