Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng trọn đời mình cho mục tiêu cao cả là giành độc lập, tự do cho Tổ quốc ta; mang ấm no, hạnh phúc cho nhân dân ta và để lại những giá trị nhân văn, cao quý cho nhân loại. Trước khi đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng và toàn dân di sản vô giá, đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng ấy được khắc hoạ rõ ràng và sâu sắc trong những tác phẩm, bút tích mà Người để lại, mà sau này 5 trong số đó được công nhận là Bảo vật Quốc gia, gồm: Đường Kách mệnh; Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký); Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến; Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước; và Di chúc.
ĐƯỜNG KÁCH MỆNH
Cách đây hơn 9 thập kỉ, năm 1927, "Đường Kách mệnh" - cuốn sách tập hợp các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dùng để đào tạo lứa cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1925-1927 ở Quảng Châu (Trung Quốc), lần đầu tiên được xuất bản. Đây được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Thông qua những bài giảng trong "Đường Kách mệnh", Nguyễn Ái Quốc - Người cộng sản Việt Nam đầu tiên - đã trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác - Lênin, phù hợp với điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng định tính phổ biến của các nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin trên phạm vi toàn cầu, không chỉ ở châu Âu mà còn cả ở phương Đông, châu Á.
Trong tác phẩm, Người nêu rõ những chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng. Đó phải là những người có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh thì mới tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn. "Đường Kách mệnh" cũng trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối của cách mạng Việt Nam.
Trở thành "cẩm nang" gối đầu giường của thế hệ cách mạng đầu tiên của Việt Nam, dưới ánh sáng của "Đường Kách mệnh", những học trò của Nguyễn Ái Quốc đã về nước hoạt động, cùng Người chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; phát động, tổ chức, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
Hơn 90 năm trôi qua, nhưng nhiều vấn đề có liên quan đến con đường, phương pháp cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản ... trong "Đường Kách mệnh" vẫn giữ nguyên tính thời sự trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
NHẬT KÝ TRONG TÙ
Tháng 8-1942, với danh nghĩa là đại biểu Việt Nam Ðộc lập Ðồng minh và Phái bộ quốc tế chống xâm lược, Bác Hồ từ Cao Bằng sang Trung Quốc để vận động quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam giành độc lập, nhưng đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, sau đó giải qua nhiều nhà lao thuộc tỉnh Quảng Tây từ ngày 25-8-1942 đến ngày 19-9-1943.
Tác phẩm "Nhật ký trong tù" là tập thơ của Người sáng tác trong thời gian này, gồm 133 bài thơ viết bằng chữ Hán, theo thể tứ tuyệt, có giá trị văn học sâu sắc. Tập thơ đã được phát hành bằng tiếng Việt từ năm 1960 và nhiều bài được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông, đồng thời được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Xuyên suốt tập thơ là hình ảnh người tù Hồ Chí Minh tràn đầy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường và một quyết tâm cao độ đấu tranh cho tự do. Dù tiếp cận ở những thời khắc khác nhau, song bất cứ ai đọc tác phẩm cũng đều phần nào hình dung được thế giới tâm hồn nhiều cung bậc của Người, thấy được tầm vóc trí tuệ của một chân dung vĩ đại, với khát vọng cao đẹp nhất là "Độc lập cho dân tộc và Tự do cho con người".
Sức mạnh của lời thơ cũng là lý trí của người chiến sĩ cách mạng. Cách đây vài năm, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật Việt Nam khẳng định: "Cảm hứng nhân văn và những bài học lớn trong thơ Bác nói chung và Nhật ký trong tù nói riêng đã trở thành cẩm nang, thành sức mạnh cho một nền thơ ca cách mạng Việt Nam".
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
"Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...", sáng 20-12-1946, lời kêu gọi nhân dân cả nước đứng dậy chống thực dân Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang lên trên sóng Đài TNVN khắp mọi miền Tổ quốc.
Bài hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dài vỏn vẹn 19 dòng với 199 từ và được Người viết tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đã thể hiện những quan điểm cốt lõi của Người về kháng chiến toàn dân, cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng quân Pháp xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi độc lập dân tộc và tự do, hòa bình là mục tiêu phấn đấu suốt đời mình. Thế nhưng trong điều kiện phải đương đầu với kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn hơn ta nhiều lần, có quân số đông và vũ khí hiện đại, ta cần phải huy động sức mạnh của toàn dân để chiến đấu.
Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc. Hơn 7 thập kỉ trôi qua, lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc đó đã trở thành một văn kiện, một bản thiên cổ hùng văn, trường tồn cùng lịch sử Việt Nam trong thời đại mới.
Trước những thăng trầm của thời gian, giá trị lịch sử của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" vẫn luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng. Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
LỜI KÊU GỌI ĐỒNG BÁO VÀ CHIẾN SĨ CẢ NƯỚC
Ngày 17-7-1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc, một lần nữa, trên sóng Đài TNVN đã vang lên "Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lời hiệu triệu của vị lãnh tụ kính yêu đã thôi thúc hàng triệu con tim, khối óc đồng bào, chiến sĩ hăng hái lên đường đánh giặc, giành độc lập, tự do cho non sông, đất nước.
Trong Lời Hịch non sông ấy có câu: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp thế hệ người Việt Nam lên đường chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục là kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân ra sức phát triển đất nước, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập.
Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc.
DI CHÚC
Tác phẩm cuối đời Người để lại cho dân tộc Việt Nam đó là bản “Di chúc” - một tài liệu quý giá, vừa chứa chan tình yêu thương với đồng bào vừa có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển của đất nước.
Di chúc được Người bắt đầu chấp bút từ tháng 5-1965 đến tháng 5-1969, ghi lại những suy nghĩ, lời căn dặn của một người “chuẩn bị đi xa” đối với những thế hệ sau nên đó tất nhiên là những điều rất thực, rất tâm huyết.
Bảo vật Quốc gia cuối cùng mà Người để lại là sự kết tinh tinh thần tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp suốt đời phấn đấu hi sinh vì nước vì dân; vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi; là những lời căn dặn thiết tha; là sức mạnh thôi thúc toàn dân tộc hành động trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Là người sáng lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời chăm lo cho việc xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng đủ điều kiện và sức mạnh lãnh đạo toàn dân tộc. Điều đầu tiên Bác nhắc tới trong Di chúc là nói về Đảng.
Quan tâm tới con người luôn chiếm vị trí quan trọng trong chỉ đạo và điều hành đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, Người nhắc đến tất thảy mọi người, từ "bà con lao động, công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh, trí thức". Người căn dặn Đảng "phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"...
Chỉ với hơn 1.000 từ vô cùng ngắn gọn, Di chúc của Người đã truyền cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ý chí quyết tâm sắt đá, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam; sức mạnh của chính nghĩa và chân lý "Không có gì quý hơn độc lập tự do"; sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Năm nay, kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh và Di chúc của Người vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc, soi rọi, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp cách mạng; kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà Người đã trọn đời cống hiến và hy sinh, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đích cuối cùng.
Những Bảo vật mà Hồ Chủ tịch để lại đều là những ngọn đuốc soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam
Trả lờiXóaBạn nói rất chính xác
Xóa