Tổng Bí thư viết bài này nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và bầu cử ĐBQH khoá XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 vào ngày 23/5 tới đây. Chúng tôi trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng
lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có
sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc,
khoa học.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ
góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi:
Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa?
Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời
gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?.
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba
tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong
trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện
khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên
học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình
chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướngđi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù
hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?
Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì
phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào
thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm
điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống
cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc,
chống phá.
Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi
ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã
của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho
rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.
Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công kích, bài
bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn
sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ
nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư
bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp
không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?
Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính
toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong
lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công
nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do
kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện
pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ
hơn so với trước.
Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để
thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh,
thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó
hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể
khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.
Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008
- 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt
đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và
tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản
ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán,
nhưng không mấy thành công.
Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt,
cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại
dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã
làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ
nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp
gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu
thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.
Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý
"phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh
vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống
kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công,
làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ
nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều
trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu
sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu.
Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình
phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách
tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng
lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy
thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho
sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy
lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất
ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã
hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu
dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh
tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo
nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải
quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước
tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất
của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ
theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt
lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ.
Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và
phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí
chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm
soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng
chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
phong trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng
lan rộng ở nhiều nước tư bản.
Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng
về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức,
trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của
đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các
nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do",
"dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được
các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên
chế của các tập đoàn tư bản.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì
con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các
giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn
nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.
Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để
bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ
không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và
huỷ hoại môi trường.
Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải
chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là
những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên
định, kiên trì theo đuổi.
Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá
trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại
ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và
chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh
thần "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do".
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ
bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình
kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại
cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân
tộc.
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu
cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong
Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa".
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã
hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái
trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định:
"Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh".
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử".
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội
bằng cách nào?Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa
chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao
để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày
càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng
nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước
mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không
thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không
thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường
với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu
nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời
đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức
tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua
mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất
công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế,
thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ
qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ
phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải
có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành
quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Đó là một kiểu kinh tế thị trường mớitrong lịch sử phát triển
của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu,
tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ
(vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình
đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát
triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông
qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để
định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng
xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã
hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế
đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng
chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ
phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không
"hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh
tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát
triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó
khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh,
bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh
nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển
văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá
trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành
tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành
mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.
Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học -
công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề
sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến
bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu
chí của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ,
nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích
chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để
chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều
kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.
Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và
lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn
đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và nhân dân làm chủ.
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm
vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng
phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông
dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi
ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ
thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của
đại đa số nhân dân.
Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để
nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi
hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác
định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không
ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối
với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân
tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của
Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc
hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với
lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên;
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền
là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hoá v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ
hệ thống chính trị.
Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất
tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua.
Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về
người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có
hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật
bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong
thời gian chiến tranh ở Việt Nam.
Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có
thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và
phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình
hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng
ta. Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển
và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức
tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng,
năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong
ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt
Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.
Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam
không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển
khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm
khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540
tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng
mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020.
Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào
cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng
sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4%
từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20%
từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc
anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp
đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải
thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm
khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của
Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn
trước).
Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã
nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu
học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để
bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung
hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo
dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần
trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết.
Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế
miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa,
phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch
bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em
dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí.
Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh
giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên
73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều
kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam
Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.
Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá
phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng
Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao
nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi
đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao
của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại
những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát
triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời
sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị,
xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã
nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt
Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước
đây.
Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng
tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại
Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không
những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội
tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.
Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong
bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm
2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm
tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hoá.
Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả
của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý
luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, trang 25 - 26).
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng
còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới
trong quá trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp,
thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều
doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô
nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập.
Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục,
chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo
đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp.
Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và
đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi
đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống
phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm xoá
bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình
xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội
chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các
nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số
lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế.
Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu
cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời,
hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn
mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội
chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành
công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản
lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính
bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước
hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng
kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội
XIII, tập 2, trang 337 - 338).
Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền
vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao
hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra
sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm
ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm
cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững
bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội
là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng.
Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp
tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.
Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng
hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình
tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu
cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi,
của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương
hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của
đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực
tiễn của thế giới và thời đại.
Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi
quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế
giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững
vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa
học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học
và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những
giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện.
Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn
cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu,
bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành
tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn
luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời
đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài viết này rất sâu sắc và vô cùng ý nghĩa
Trả lờiXóa