Nhận thức đúng giá trị của Chiến thắng 30-4-1975: Cơ sở của đạo đức, nhân cách và trí tuệ của người Việt Nam
Đất nước ta đang trong dịp kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975/30-4-2023). Gần đến dịp kỷ niệm, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ suy thoái tư tưởng chính trị đã tung ra những thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc phủ nhận giá trị, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Họ cho rằng, ngày 30-4-1975 là “ngày kết thúc của một cuộc nội chiến tương tàn”, “ngày ghi dấu ấn trong lịch sử khi dân tộc Việt Nam chia làm hai nửa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”... Vậy sự thật, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 là như thế nào?
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không
phải là nội chiến
Đầu tiên cần khẳng định ngày 30-4-1975
là ngày vui thống nhất, ngày vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam!
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Geneva được ký
kết năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta.
Ranh giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được
thống nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản
tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ
được tổ chức vào tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân
thực dân Pháp ở miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt
Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không
thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử
trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng
tuyển cử, giành quyền thống trị miền Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát
hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi
ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo,
gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm,
Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình
Diệm không còn phù hợp với chính sách của mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo
chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền
Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại
Việt Nam.
Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền
Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến
Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân
Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào
miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải
rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973
thì bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực
chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách
mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với
toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả
nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh
tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận được lệnh hoãn). Còn chính
quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên, không do nhân dân Việt Nam
bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng
của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì thế, đây không
phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng dân. Thực tế là trong
suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì nhân dân miền Nam luôn
đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa này. Để phủ nhận chính
quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã lập ra Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân dân toàn miền.
Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến
trường, chịu sức ép của dư luận trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một
cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân
khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ
quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài Gòn thành con rối trong tay Mỹ.
Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước không phải là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của
toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ
và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975.
Bên nào thắng cuộc?
Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng
trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện
khát vọng thống nhất đất nước, giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành
được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ
trong suốt 30 năm.
Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có
thể thực hiện thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức
thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể
hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa
bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế
nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn
khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự,
đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt
Nam, nhân dân Việt Nam.
Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có 8 bức thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của
các bức thư, bức điện này thể hiện rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt
Nam và thiện chí của Việt Nam muốn được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình,
tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng!
Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt
hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến 10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái
đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán
với Chính phủ Pháp, thuyết phục chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của
Chính phủ Việt Nam, của phái đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang
tư tưởng thực dân, vẫn muốn chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu
cử phổ thông đầu phiếu ở Nam Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt
lờ.
Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều
khoản về bầu cử, hiệp thương để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy
lại tiếp tục trắng trợn phá hoại hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do,
đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.
Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và
Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất
nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng
tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay
sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định
hòa bình là Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris. Do đó, hòa bình, độc lập,
thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta.
Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là
những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách.
Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh
đồng chính nghĩa và phi nghĩa
Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết
sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước
ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt
Nam ở nước ngoài cả về vật chất, trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn
được trân trọng. Trong số những người Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều
hướng về quê hương với tình yêu và sự nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương.
Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn
Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn
đóng góp công sức để xây dựng đất nước Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với
sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất
nước Việt Nam đã có những thành tựu đột phá về phát triển trong thời kỳ đổi
mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên.
Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số,
hầu hết đều là những người đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm
cách hòng phá hoại đất nước Việt Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là
ngày giỗ của một chính thể phi pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết
sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc” thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng
30-4-1975.
Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt
Nam, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên
cường vì khát vọng ấy. Và thực tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân
tộc từ ngay sau Chiến thắng 30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất
nước. Đối với những người Việt Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay
yêu thương, luôn coi họ là một phần ruột thịt của Tổ quốc.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là
bài học quý báu được đúc rút từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân
tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng,
hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc
không phải là sự đổi trắng thay đen, không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa
và phi nghĩa, dứt khoát không phải là sự đánh đồng giữa những người có công với
những kẻ có tội với dân tộc Việt Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh
người chạy" lại là đạo lý của người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự
thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn
dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp tâm phá hoại đất nước, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh ngộ “quay đầu là bờ” thì
nhân dân Việt Nam cũng khó dung tha.
Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975,
chúng ta lại càng thấm thía hơn ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với
người Việt Nam. Đối với các quốc gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn
là yêu cầu bắt buộc đối với mọi công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một
quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc
Việt Nam thì dạy và học lịch sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi
vì những người Việt Nam thế hệ sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc,
hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính
bản thân mình, rút ra cho mình những bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững
kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một
con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử, mới hiểu về hiện tại và hình dung ra
con đường đúng đắn tới tương lai; có trân trọng, biết ơn cha ông mới trân quý,
nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực đóng góp công sức không chỉ cho thế
hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai trên đất nước Việt Nam.
Ngày 30-4-1975 là ngày vui thống nhất, ngày vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam.-k10
Trả lờiXóaChiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử, khẳng định tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
Trả lờiXóa