Một trong những nội dung quan trọng
được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đầu tiên trong bản Di chúc là vấn đề xây dựng
Đảng. Vượt qua ngôn ngữ, hình thức của một bản Di chúc thông thường, những vấn
đề viết về xây dựng Đảng của Người trong Di chúc đã đạt đến tầm lý luận sâu
sắc.
Nói về Đảng, trước hết Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc ta: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ
phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
Đây là sự tổng kết mang tính lý luận
và thực tiễn sâu sắc về vị trí, vai trò của Đảng. Thực tế cho thấy, từ khi được
thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám thắng
lợi, lập nên nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Tiếp đó, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược.
Và cho đến thời điểm Người viết Di
chúc, Đảng đã và đang lãnh đạo nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới
thống nhất nước nhà. Bác khẳng định yếu tố cốt lõi dẫn đến sự tổ chức, lãnh đạo
thành công của Đảng, đó là: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục
vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc".
Như vậy, hai yếu tố quan trọng giúp
cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân
dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng là sự đoàn
kết chặt chẽ trong Đảng và Đảng một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc. Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đảng có đoàn kết chặt chẽ thì mới
thực hiện được tôn chỉ, mục đích phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc. Ngược lại, phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc là cơ sở
để tạo ra và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Bác cũng khẳng định: "Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình". Thật vậy, đoàn kết là một nội dung quan trọng
trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, củng cố và
phát triển lâu dài trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản
Việt Nam, hơn ai hết, Bác hiểu rõ đoàn kết có sức mạnh to lớn như thế nào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đoàn kết luôn là tư tưởng chiến lược cách mạng lâu dài nhất quán, có
ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng chính
là cơ sở của đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, là sức mạnh của Đảng và là
nguồn gốc của mọi thắng lợi. Do đó, trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn
kết đã được Bác đặt lên hàng đầu.
Sự so sánh giữa "giữ gìn đoàn
kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" hàm chứa ẩn ý
rất sâu sắc. Có giữ gìn được đoàn kết trong Đảng mới giúp cho Đảng sáng suốt
trong tổ chức, lãnh đạo nhân dân, trong xác định đường lối cách mạng. Ngược
lại, Đảng không giữ gìn được sự đoàn kết, khác nào mắt bị hỏng con ngươi, như
người mù không thấu tỏ đường đi.
Có thể thấy, chỉ trong một đoạn ngắn
mà Bác sử dụng đến 5 từ "đoàn kết", cho thấy đây là một điều kiện
không thể thiếu, một điều kiện tất yếu khi Đảng muốn xây dựng, phát triển trong
sạch, vững mạnh.
Không những chỉ ra vai trò to lớn
của sự đoàn kết, Bác còn chỉ ra cách thức, phương pháp để thực hiện đoàn kết
nhất trí trong Đảng.
Bác viết: "Trong Đảng thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Đây không chỉ là sự đúc kết, khái quát
mang tầm lý luận sâu sắc mà còn là biểu hiện tầm cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Sinh thời, Người từng nêu lên mối
quan hệ giữa thực hiện dân chủ và đoàn kết trong Đảng: Không thực hiện dân chủ
thì không đoàn kết được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền,
không dân chủ trong Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được. Nhờ có dân chủ mà
Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của mình. Nhờ có dân chủ trong Đảng nên đã khắc phục được tình
trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
xa rời quần chúng.
Vì vậy, "thực hành dân chủ rộng
rãi" là điều vô cùng cần thiết trong Đảng. Bên cạnh đó, phê bình và tự phê
bình cũng là một nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển và là
vũ khí sắc bén của Đảng.
Phê bình và tự phê bình không những
để sửa chữa khuyết điểm trong Đảng, làm cho đảng viên tiến bộ và mạnh lên, mà
còn khẳng định Đảng thật sự chân chính. Khi căn dặn về thực hiện phê bình và tự
phê bình trong Đảng, Bác lưu ý phải tiến hành "thường xuyên và nghiêm chỉnh".
Bởi lẽ, nếu không được tiến hành thường xuyên, lúc làm, lúc không thì sự phê
bình và tự phê bình không kịp thời; mặt khác, nếu tiến hành không nghiêm chỉnh,
qua loa, hình thức, "dĩ hòa vi quý" thì không có hiệu quả, thậm chí
còn phản tác dụng.
Bác cũng không quên nhắc nhở cán bộ,
đảng viên "phải có tình thương yêu lẫn nhau". Bởi trên cơ sở tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau thì mới thực hành được "dân chủ rộng
rãi," mới "thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình".
Không có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau sẽ dẫn đến dân chủ hình thức, tự phê
bình và phê bình không nghiêm túc.