Social Icons

Pages

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

Bài 4: Phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc chính sách dân tộc của Việt Nam

 

(ĐCSVN) - Mặc dù các quyền con người là tự nhiên, vốn có nhưng về đối nội, để các quyền đó được hiện thực hoá thì cần có vai trò của Nhà nước. Về đối ngoại, Việt Nam nhận thức rõ việc đảm bảo các quyền cho người dân tộc thiểu số (DTTS) chính là biểu hiện cao nhất của việc thực thi Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) mà Việt Nam đã tham gia từ năm 1982.

Bài 3: Nhận diện âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chính sách dân tộc ở Việt Nam

Bài 2: Việt Nam tích cực thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

Bài 1: Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc

Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gặp mặt các già làng, trưởng bản, người có uy tín tiêu biểu toàn quốc (ngày 21/12/2018) - ảnh: TTXVN

Tích cực thể chế hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến dân tộc

Thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã tích cực nội luật hoá các quy định, nguyên tắc về quyền con người trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc. Một trong những mục tiêu của nội luật hoá là đảm bảo sự tiến bộ thực sự về nhân quyền cho người DTTS.

Từ 30 văn bản thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng, đã được Nhà nước thể chế thành hệ thống chính sách dân tộc bao phủ hầu hết các lĩnh vực đời sống của đồng bào DTTS. Trong 10 năm qua, Quốc hội Việt Nam đã ban hành 125 luật, trong đó có 352 điều khoản trực tiếp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các DTTS.

Hiến pháp 2013 khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Nguyên tắc không phân biệt đối xử và bình đẳng giữa tất cả các thành viên trong cộng đồng là cốt lõi của Hiến pháp và cũng được thực hiện thông qua các cải cách lập pháp có liên quan. Nguyên tắc trên được quán triệt trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, là nguyên tắc cơ bản của chính sách đảm bảo quyền cho các DTTS. Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật.

Ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc nêu rõ, do phần lớn các DTTS Việt Nam cư trú ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, gặp khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội nên đồng thời với việc xác định quyền bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam còn khẳng định ưu tiên hỗ trợ và tăng cường đoàn kết giúp đỡ, tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực vươn lên hội nhập với sự phát triển chung được thể hiện tại Điều 5 Khoản 4 của Hiến pháp: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây là nguyên tắc, là biểu hiện đặc trưng cơ bản trong chính sách dân tộc của Việt Nam và phù hợp với Khoản 4 Điều 1 Công ước CERD.

Pháp luật Việt Nam còn có những quy định cụ thể về cấm phân biệt đối xử, được thể hiện tại Hiến pháp năm 2013 (Điều 16, 26, 35) và nhiều văn bản pháp luật. Việt Nam cũng khẳng định lập trường kiên quyết phản đối và chống chia rẽ, kích động hận thù giữa các dân tộc, chủng tộc. Những hành vi phân biệt chủng tộc hoặc hỗ trợ các hoạt động gây chia rẽ, kỳ thị và phân biệt chủng tộc đều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, trừng trị nghiêm khắc.

Thành tựu phát triển không thể phủ nhận

Theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Kỷ - Phó Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Công an, trong các giai đoạn lịch sử của cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn ưu tiên hỗ trợ các DTTS phát triển về mọi mặt. Từ khi gia nhập Công ước CERD, Việt Nam tiếp tục huy động nguồn lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào DTTS; xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.

Nhờ những chủ trương, chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, Nhà nước, lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào DTTS đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, được thể hiện trên những khía cạnh như sau:

Thứ nhất, bình đẳng về chính trị của các DTTS được thực hiện ngày càng hiệu quả

Từ năm 1946 đến nay, kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội nào cũng có đại diện của 28 - 32 dân tộc. Khóa I (1946), chỉ có 34 đại biểu người DTTS, tỷ lệ 10,2% thì Quốc hội Khóa XV nhiệm kỳ 2021 - 2026, đã có 89/499 đại biểu là người DTTS, tỷ lệ 17,84%, cao nhất trong các khóa Quốc hội và tiệm cận rất sát tới mục tiêu đảm bảo ít nhất 18% đại biểu Quốc hội là người DTTS.

Một số DTTS có số dân đông như Tày, Thái, Mường, Khmer, Mông, Nùng… đều có đại diện qua các khóa Quốc hội với số lượng đáng kể. Một số dân tộc có dân số dưới 10.000 người sinh sống ở các vùng núi cao, hẻo lánh cũng có đại diện tham gia Quốc hội. Khóa XIV, lần đầu tiên có đại diện dân tộc Mảng (dân số dưới 5.000 người) và khóa XV, lần đầu tiên có đại diện dân tộc Brâu (dân số dưới 1.000 người) và dân tộc Lự (dân số 6.000 người) tham gia Quốc hội. Đến nay, 51/53 DTTS đã có đại diện tham gia Quốc hội các khóa, chỉ còn 2 dân tộc: Ơ đu (số dân dưới 1.000 người) và Ngái (số dân dưới 2.000 người) chưa có đại diện tham gia Quốc hội. Mục tiêu của Việt Nam là phấn đấu để các dân tộc đều có đại biểu Quốc hội.

Cô giáo Nàng Xô Vi (dân tộc Brâu) Đại biểu Quốc hội phát biểu thảo luận tại Kỳ họp lần thứ 2 Quốc hội khoá VX (tháng 12/2021) - ảnh: quochoi.vn 

Về tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) là người DTTS ở cấp xã, cơ bản, các địa phương đã đạt được mục tiêu theo Quyết định số 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đến tháng 5/2023, tỷ lệ CBCCVC người DTTS chiếm 11,5% tổng số CBCCVC. Nhiều địa phương có tỷ lệ CBCCVC người DTTS cao như: Cao Bằng 87,9%, Bắc Kạn 77,8%, Lạng Sơn 75,2%, Hà Giang 56%, Sơn La 53%, Hòa Bình 50,3%, Điện Biên 46,4%, Tuyên Quang 38%, Lào Cai 37,5%.

Thứ hai, kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS phát triển vượt bậc

Những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam đã ưu tiên bố trí ngân sách để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi. Giai đoạn 2003 - 2008, khoảng 250.000 tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015 là 690.000 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 998.000 tỷ đồng. Giai đoạn 2021 - 2025, lần đầu tiên, Việt Nam có Chương trình mục tiêu quốc gia dành riêng cho vùng đồng bào vùng DTTS và miền núi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt, là quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao vị thế và đảm bảo quyền phát triển cho đồng bào DTTS. Giai đoạn này, Quốc hội phê duyệt chủ trương bố trí trên 137 nghìn tỷ đồng để thực hiện Chương trình.

Theo báo cáo số 732/BC-UBDT ngày 10/6/2021 của Ủy ban Dân tộc tổng kết 8 năm thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2013 - 2020, nhờ các chính sách dân tộc, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hàng năm. Bình quân toàn vùng DTTS và miền núi giảm 4%/năm; các xã đặc biệt khó khăn giảm trên 4%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm 5 - 6%/năm trở lên, trong khi cả nước tốc độ giảm chỉ là 2%/năm.

Năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo DTTS còn khoảng 33% (giảm 5,62%) so với chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao. Một số tỉnh ước tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh: An Giang giảm 11,3%, Quảng Nam giảm 10,4%, Quảng Trị giảm 6,73%... Các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Cần Thơ, Đồng Nai, Long An, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn dưới 1%; tỉnh Quảng Ninh không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Trung ương. Kết quả giảm nghèo đa chiều đã làm thay đổi căn bản đời sống của đồng bào.

Toàn quốc có 7,9 triệu lao động DTTS có việc làm, chiếm 82,1% tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên. Tỷ lệ thất nghiệp của người DTTS chỉ là 1,4%, thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn quốc[1].

Hơn 1,4 triệu hộ DTTS đang được thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng ưu đãi. Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội[2]: dư nợ đối với khách hàng là đồng bào DTTS trên 75 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,7%/tổng dư nợ[3]; bình quân 01 hộ DTTS dư nợ đạt trên 50 triệu đồng (bình quân chung toàn quốc là 45 triệu đồng). Thông qua vốn tín dụng chính sách, đồng bào DTTS đã có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm bệnh tật, giảm thất học và tệ nạn xã hội, thêm tự tin, tăng dần vị thế trong xã hội.

Nhà nước còn hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho đồng bào DTTS ở vùng khó khăn. Hiện nay, 96,12% người DTTS sử dụng thẻ bảo hiểm y tế. Số người nghèo, người DTTS tham gia thực hiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đạt gần 43 triệu lượt người, chiếm 24% số người tham gia bảo hiểm y tế toàn quốc.

Hiện nay, 96,12% người DTTS sử dụng thẻ bảo hiểm y tế và thường xuyên được sử dụng các dịch vụ khám chưa bệnh ở tất cả các tuyến từ Trung ương tới cơ sở (ảnh: Phương Liên)

Khi gặp rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… đồng bào DTTS được Nhà nước hỗ trợ kịp thời. Điển hình lúc dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, Ủy ban Dân tộc đã kịp thời hỗ trợ bệnh nhân F­0 và F1 người DTTS tại tỉnh Điện Biên và Bắc Giang tổng số tiền 837,5 triệu đồng[4], hỗ trợ ổn định đời sống đối với học sinh DTTS một số trường dự bị đại học…

Đồng bào DTTS, phụ nữ, trẻ em dưới 6 tuổi, người dân vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo ngày càng có nhiều cơ hội được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản. Bệnh sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; tuổi thọ trung bình của 53 DTTS đạt 70,7 tuổi, tăng 0,8 năm so với năm 2015, tiến khá gần tới mức chung của cả nước (73,6 tuổi). Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 90%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm mạnh qua từng năm. Thành tựu về giảm suy dinh dưỡng trẻ em và giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em của Việt Nam đã đảm bảo tiến độ thực hiện Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ[5].

Quy mô, mạng lưới trường, lớp vùng DTTS và miền núi được củng cố, phát triển từ mầm non, phổ thông đến cao đẳng, đại học. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở là thành tựu nổi bật của Việt Nam được ghi nhận tại nhiều diễn đàn quốc tế.

Chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các DTTS được thực hiện hiệu quả. Nhiều lễ hội truyền thống lành mạnh được phục hồi, phát triển và hình thành mới, góp phần giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Về nhà ở, 95% hộ DTTS đang sống trong những ngôi nhà thuộc quyền sở hữu riêng; 96,7% hộ được sử dụng điện lưới quốc gia; 88,6% hộ được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh; 59,6% hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh, vượt mục tiêu đề ra đến năm 2020 gần 20%.

Tivi đã trở thành thiết bị sinh hoạt phổ biến của hộ DTTS với 81,5% số hộ sử dụng. Cơ hội tiếp cận thông tin của người DTTS ngày càng được mở rộng với tỷ lệ hộ sử dụng Internet đạt 61,3%, tăng hơn 9 lần so với năm 2015[6].

Hệ thống các chính sách dân tộc hiện nay được đánh giá là cơ bản đã bao phủ toàn diện các lĩnh vực đời sống, kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng, an ninh tại vùng DTTS và miền núi. Những thành tựu trong nội luật hoá và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta là minh chứng thuyết phục phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc về cái gọi là “Đảng, Nhà nước Việt Nam “phân biệt đối xử” với các DTTS” hoặc “chính sách ngược đãi các DTTS đang diễn ra ở Việt Nam”…


[1] Ủy ban Dân tộc: Kết quả Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019

[2] Báo cáo kèm theo văn bản số 5565 /NHCS-TDNN ngày 11/7/2023 của Ngân hàng Chính sách - xã hội

[3] Cho vay thực hiện các chương trình, chính sách theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ: 32/2007/QĐ-TTg; 74/2008/QĐ-TTg; 54/2012/QĐ-TTg; 29/2013/QĐ-TTg; 755/2013/QĐ-TTg; 2085/2016/QĐ-TTg và Nghị định số 28/2022/NĐ-CP của Chính phủ

[4] Ủy ban Dân tộc: Báo cáo sơ kết công tác dân tộc 6 tháng đầu năm 2021

[5] Ủy ban Dân tộc: Kết quả Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019

[6] Ủy ban Dân tộc: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019

Mời đọc Bài cuối: Hành động trách nhiệm và tiếng nói lương tri vì sự bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc

Phương Liên - Phạm Kiên

Bài 3: Nhận diện âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chính sách dân tộc ở Việt Nam

 


(ĐCSVN) - Các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách thông tin sai lệch bản chất chính sách dân tộc nhằm gây hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) với Đảng, Nhà nước; kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Nhận diện luận điệu, thủ đoạn của chúng để nâng cao cảnh giác, đấu tranh phản bác, đồng thời khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng về vấn đề dân tộc là rất quan trọng.

Bài 2: Việt Nam tích cực thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

Bài 1: Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc

Vùng dân tộc thiểu số và miền núi là địa bàn trọng điểm để các thế lực thù địch lợi dụng

Trong 12 năm, từ 2011 - 2023, vùng DTTS và miền núi xảy ra hai vụ việc rất nghiêm trọng. Vụ thứ nhất, từ 30/4 - 6/5/2011, một số phần tử xấu dùng nhiều thủ đoạn kích động, lừa mị lôi kéo hàng nghìn đồng bào Mông từ nhiều xã trong huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên và các địa phương khác: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Đắk Nông, Đắk Lắk… tụ tập về bản Huổi Khon, xã Nậm Kè để chờ ngày chúa phán quyết (21/5/2011) và xưng vua.

 Hiện trường vụ việc hàng nghìn đồng bào Mông bị kích động, lừa mị, lôi kéo tụ tập về bản Huổi Khon, xã Nậm Kè để chờ ngày chúa phán quyết và xưng vua, gây mất trật tự trị an, hồi trung tuần tháng 5/2011 (ảnh: Báo Công an Nhân dân)

Các thế lực thù địch đã lợi dụng trình độ dân trí thấp, đời sống khó khăn và sự cả tin của đồng bào trong âm mưu xưng vua của một số phần tử cầm đầu; lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền đạo trái pháp luật hòng làm mất ổn định chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn biên giới.

Vụ thứ hai, đêm 10/6, rạng sáng 11/6/2023, gần 100 đối tượng người DTTS, chia thành 2 nhóm tấn công trụ sở xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk giết chết 4 cán bộ Công an xã, làm bị thương 2 cán bộ Công an xã khác, đập phá, thiêu đốt tài sản nhà nước và công dân... Trên đường rút chạy, các đối tượng tiếp tục phá hoại tài sản của người dân; uy hiếp 3 người dân làm con tin; giết chết 2 cán bộ xã và 3 người dân. Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của cán bộ, người dân, phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân để thành lập cái gọi là “Nhà nước Đêga”.

Kết quả điều tra xác định, do thiếu hiểu biết, vướng mắc trong cuộc sống cá nhân nên một số đối tượng là người DTTS ở tỉnh Đắk Lắk đã bị các đối tượng phản động, lưu vong ở Mỹ là Y Mút Mlô, Y Čik Niê, Y Niên Êya, Y Bút Êban (Y Bé Êban), Y Chanh Byă, Y Sôl Niê... dùng nhiều thủ đoạn tuyên truyền, kích động, lôi kéo, dụ dỗ tham gia tổ chức phản động. Các đối tượng cốt cán trong nước nghe theo chỉ đạo của các đối tượng nước ngoài tiếp tục lôi kéo, dụ dỗ, đe dọa, cưỡng ép một số người DTTS nhẹ dạ, cả tin khác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thành lập nhóm vũ trang lấy tên gọi là “Lính Đêga” để tiến hành hoạt động khủng bố, phá hoại...

Ngoài hai vụ việc trên, tại vùng DTTS và miền núi, những năm gần đây, còn xảy ra một số vụ đồng bào DTTS khiếu kiện, tranh chấp đông người; phát sinh một số vụ mâu thuẫn giữa đồng bào DTTS với người Kinh, với doanh nghiệp, chính quyền… 

Từ những sự việc trên cho thấy, vùng DTTS và miền núi là địa bàn trọng điểm mà “thế lực thù địch, phản động đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ đối với nước ta, trong đó các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ là những mắt xích chiến lược, các thế lực thù địch đang tập trung “đột phá”.

Được sự tiếp sức, hậu thuẫn của thế lực thù địch, một số đối tượng cầm đầu trong các tổ chức phản động người DTTS lưu vong đã lập ra cái gọi là “nhà nước” của người DTTS ở bên ngoài như: Nhà nước “Đề ga” của người Thượng, “Nhà nước Mông”, “Chính phủ Chăm lưu vong”… Từ đó, chúng chỉ đạo, móc nối với số đối tượng trong nội địa tập hợp lực lượng, củng cố tổ chức… để khi có thời cơ sẽ tổ chức biểu tình, bạo loạn cướp chính quyền, thành lập “nhà nước” ở từng vùng DTTS nước ta”[1]

 Một trong những hiện trường vụ án gần 100 đối tượng người DTTS, chia thành 2 nhóm tấn công trụ sở xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk giết chết 4 cán bộ Công an xã, làm bị thương 2 cán bộ Công an xã khác, đập phá, thiêu đốt tài sản nhà nước và công dân... Trên đường rút chạy, các đối tượng tiếp tục phá hoại tài sản của người dân; uy hiếp 3 người dân làm con tin; giết chết 2 cán bộ xã và 3 người dân (ảnh:TTXVN)

Đưa ra các quan điểm sai trái, thù địch, vu cáo, xuyên tạc là thủ đoạn phổ biến

Một thuộc tính cố hữu trong bản năng chống Cộng của các phần tử thù địch đối với cách mạng Việt Nam nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng đó là nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp và phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam[2].

Đa số đồng bào DTTS sinh sống ở vùng miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn. Lợi dụng trình độ dân trí thấp, bản tính thật thà, chất phác của đồng bào và những khó khăn, thiếu sót trong thực hiện chủ trương của Đảng về chính sách dân tộc, các thế lực thù địch, phản động thường đưa ra các quan điểm sai trái, thù địch, vu cáo, xuyên tạc: “Đảng, Nhà nước Việt Nam “phân biệt đối xử” với các DTTS” hoặc “chính sách ngược đãi các DTTS đang diễn ra ở Việt Nam”. Mục đích của chúng là thông tin sai lệch bản chất chính sách dân tộc nhân văn, tốt đẹp, làm mất uy tín của Đảng, gây hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước; kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, hình thành lực lượng phản động là người DTTS làm đối trọng với lực lượng cách mạng trên địa bàn, thúc đẩy xu hướng ly khai, tự trị dân tộc, gây ra các vụ xung đột, bạo loạn, khủng bố… để “quốc tế hóa” vấn đề dân tộc, tạo cớ cho các thế lực thù địch can thiệp vào công việc nội bộ, phá hoại nền độc lập, thống nhất và sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam[3].

Có thể thấy rõ âm mưu, thủ đoạn này của chúng qua phân tích trong bài viết “Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc về quyền của nhóm dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 4 (32) - 2023 của PGS,TS Nguyễn Thị Báo, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Tác giả nêu: “lợi dụng vụ khủng bố ở Đắk Lắk ngày 11/6/2023, các thế lực thù địch đã chớp thời cơ đưa ra nhiều luận điệu xảo trá xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; vu khống, bôi nhọ Việt Nam, kích động tư tưởng ly khai dân tộc, tạo điểm nóng về nhân quyền, gây bão dư luận quốc tế, gây bất ổn định từ bên trong và kiếm cớ kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam nhân danh bảo vệ nhân quyền của đồng bào DTTS: Đài Á châu tự do đã đăng tải bài viết có nội dung kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta, cho rằng: trên thực tế Đảng ta không thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết dân tộc, áp dụng chính sách “thuộc địa”, vi phạm quyền sở hữu đất đai của người Thượng dẫn đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”. Đài VOA đăng tải, “giật tít” nhiều bài viết đánh lừa người đọc, trích dẫn nhiều lời sai trái, bịa đặt của các phần từ phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài như: Y Phíc - đối tượng thuộc nhóm “Người Thượng vì công lý - MSFJ”), Nguyễn Đình Thắng - kẻ cầm đầu BPSOS, CAMSA ở Mỹ xuyên tạc chính sách pháp luật của Việt Nam về quyền của người DTTS, những kẻ này không bỏ lỡ cơ hội kiếm Đô-la bằng nhiều câu từ mang tính kích động, hằn học, bêu riếu chính quyền, cho rằng vụ tấn công của người Thượng ở Đắc Lắc là do họ bị “đẩy đến đường cùng”.

Báo điện tử Công an nhân dân phản ánh: “Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 23/6 đăng bài “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc của núi rừng trong lòng tôi” đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Bài viết cố tình hướng lái sai mục đích, ý nghĩa của vấn đề di dân, phát triển kinh tế ở Tây Nguyên, từ đó quy chụp “không gian của các sắc tộc bị tan vỡ”! Người viết đưa ra những câu từ vừa trái bản chất, vừa mang tính kích động như “Sau biến cố 30/4/1975, Tây Nguyên bước vào kỷ nguyên bị phá vỡ”[4].

Các thế lực thù địch đã triệt để “lợi dụng và xoáy sâu vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, đất đai, xem đây là những “ngòi nổ” để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, “bài Kinh”. Trên phương diện quốc tế, các tổ chức phản động lưu vong và các đối tượng xấu triệt để lợi dụng Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị để tuyên truyền xuyên tạc. Lợi dụng các diễn đàn quốc tế vu cáo Việt Nam “đàn áp, diệt chủng người dân tộc ở Tây Nguyên”, kêu gọi Mỹ, Liên hiệp quốc can thiệp, gây sức ép ngoại giao với Việt Nam”[5]

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Y Thông, dẫn đầu đoàn công tác liên ngành của Việt Nam đàm phán đối thoại bảo vệ Báo cáo Quốc gia lần thứ 5 (CERD 5) của Chính phủ Việt Nam tại Kỳ họp thứ 111 Ủy ban Công ước quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) tại Geneve (Thuỵ Sĩ) - ngày 29-30/11/2023 (ảnh: webtv.un.org)

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc một khi bị thổi phồng, nói đi nói lại có thể gây ra một số cách hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ, méo mó, phiến diện; làm cho một số nước hoặc một số tổ chức quốc tế mặc dù rất ủng hộ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đối với công tác dân tộc, nhưng đôi khi bị nhiễu loạn thông tin, hiểu sai, hiểu nhầm. Chẳng hạn, trong một số vấn đề đề nghị phía Việt Nam giải thích thêm trong vòng 48 giờ sau các phiên bảo vệ Báo cáo quốc gia lần thứ 5 thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (Báo cáo CERD 5) (tháng 11/2023), Uỷ ban Công ước quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) nêu câu hỏi: “Chiếm đất là một trong những hành vi vi phạm nghiêm trọng nhất quyền lợi của người dân bản địa. Chúng tôi nhận được nhiều báo cáo rằng chính phủ hoặc chính quyền địa phương tịch thu đất đai của người dân bản địa đã sống ở đó nhiều thế hệ với lý do là các dự án trữ nước hoặc xây dựng sân gôn và khu nghỉ dưỡng. Những người đó đã bị đuổi khỏi đất đai của họ chỉ với sự hỗ trợ tái định cư và bồi thường tài chính tối thiểu. Xin giải thích về hành vi vi phạm như vậy đối với người bản địa?”

Về câu hỏi này, không cần đến 48 giờ, ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, Trưởng đoàn công tác liên ngành đàm phán đối thoại bảo vệ Báo cáo CERD 5 rất nhanh chóng đã khẳng định: “Ở Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố trí tái định cư. Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận lợi cho người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất ở Việt Nam được thực hiện công khai, minh bạch, tạo điều kiện tốt nhất cho người có đất thu hồi sớm ổn định cuộc sống tại nơi tái định cư. Không có việc người dân bị chính quyền “đuổi” ra khỏi nơi cư trú một cách vô cớ. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do Nhà nước thu hồi đất ở thì được hỗ trợ tái định cư”…


[1] PGS. TS. Trần Xuân Dung, Giải pháp cơ bản cấp bách phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch đối với vùng DTTS và miền núi nước ta và đề xuất bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Tài liệu Hội thảo Góp ý nội dung công tác dân tộc trong Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hà Nội, tháng 6/2020, tr.219 - 220

[2] Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội-2020, tr.111

[3] PGS. TS. Trần Xuân Dung, Giải pháp cơ bản cấp bách phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch đối với vùng DTTS và miền núi nước ta và đề xuất bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Tài liệu Hội thảo Góp ý nội dung công tác dân tộc trong Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hà Nội, tháng 6/2020, tr.215

[4] Báo điện tử Công an nhân dân (3/7/2023), Những luận điệu xảo trá sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk (Bài 1)https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/nhung-luan-dieu-xao-tra-sau-vu-khung-bo-o-dak-lak-bai-1--i698931/, truy cập ngày 17/1/2024

[5] Báo điện tử Công an nhân dân (19/6/2023), Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động chống phá trên địa bàn Tây Nguyênhttps://cand.com.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/am-muu-loi-dung-van-de-dan-toc-ton-giao-de-kich-dong-chong-pha-tren-dia-ban-tay-nguyen-i697377/, truy cập ngày 17/1/2024

Mời đọc Bài 4: Phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc chính sách dân tộc của Việt Nam

Trần Quỳnh - Phạm Kiên