Bước vào thời kỳ cuối những năm 80 đầu năm 90 của thế kỷ XX, một loạt các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào cuộc tổng khủng hoảng sâu sắc dẫn tới thay đổi thể chế chính trị từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản, tại sao lại như vậy, có phải chủ nghĩa Mác-Lê nin đã lỗi thời cần phải xoá bỏ như những thế lực phản động từng rêu rao.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích nhằm tìm ra nguyên nhân của sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu và đều có chung một nhận xét, nguyên nhân không ai khác, ngoài sự tiến công bằng chiến lược diễn biễn hoà bình của các thế lực thù địch từ bên ngoài vào Liên Xô và Đông Âu thì một trong những nguyên nhân sâu xa thuộc về chính những người đứng đầu Đảng cộng sản và Nhà nước Liên Xô và Đông Âu lúc bấy giờ là xa rời nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin, có nhận thức không đúng về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nóng vội chủ quan duy ý chí trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành các biện pháp cải tổ, cải cách sai nguyên tắc không phù hợp với tình hình thực tế của mỗi nước dẫn tới rối loạn xã hội làm thay đổi chế độ.
Như mọi người đều biết, sau khi Lê nin mất năm 1924, chính sách kinh tế mới NEP do người vạch ra không được tiếp tục thực hiện, thay vào đó là nền sản xuất kế hoạch hoá tập trung theo pháp lệnh từ bên trên dội xuống. Công bằng mà nói, chính sách này phát huy được tác dụng trong một giai đoạn nhất định, nhất là trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại, huy động cao và nhanh về sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Nhưng bước vào thời kỳ hoà bình, chính sách này tỏ ra không phù hợp nữa vì nó không động viên được năng lực, sức sáng tạo của người lao động, sản xuất không gắn liền với thị trường, thậm chí phủ định sạch trơn quan hệ sản xuất hàng hoá. Nền sản xuất kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì từ trước chiến tranh thế giới thứ 2 và kéo dài đến tận những năm 70 của thế kỷ xx, mặc dù đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết nhưng vẫn không được khắc phục, tình trạng tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền ở các cấp trong bộ máy lãnh đạo của Liên Xô và các nước Đông Âu rất phổ biến gây mất lòng tin của nhân dân, mối quan hệ giữa đảng với nhân dân ngày càng rạn nứt. Trong khi đó, thay vì phải sớm cải quan hệ sản xuất cho phù hợp với sức phát triển của lực lượng sản xuất, tuân thủ theo đúng qui luật của giá trị sản xuất hàng hoá, phát huy được năng lực sức sáng tạo của toàn xã hội thì những người đứng đầu Đảng và Nhà nước Liên Xô lại đề ra đường lối cải tổ về chính trị, đây là bước đi mạo hiểm, một sai lầm nghiêm trọng không có cơ hội cứu chữa. Do chưa được chuẩn bị kỹ về mọi mặt, nhất là công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân trước những quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước chưa thật sự thấu đáo, thêm vào đó, quá trình thực hiện lại thiếu những biện pháp đồng bộ. Ngay trong nội bộ Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, có nhiều sơ hở trong công tác tổ chức và cán bộ, để các phần tử cơ hội về chính trị chui sâu, leo cao vào các cơ quan trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước móc nối với các phần tử phản động từ bên ngoài do Mỹ và Phương Tây hậu thuẫn, chống phá Nhà nước Liên Xô và Đông Âu cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm tê liệt bộ máy lãnh đạo của Đảng, vì thế, khi đất nước có nguy biến, Đảng cộng sản Liên Xô và đảng cộng sản và công nhân ở các nước Đông Âu để mất vai trò lãnh đạo, nhanh chóng tan rã, tuyên bố tự giải tán, trao quyền lãnh đạo đất nước cho các lực lượng đối lập. Nhiều đảng cộng sản sau khi giải tán còn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, cấm hoạt động như Đảng Công nhân Thống Nhất Ba Lan, Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức…
Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể với những khuyết tật vốn có không thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội được duy trì quá lâu làm kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và cả nhận thức lệch lạc giáo điều cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội, sự vận dụng một cách dập khuôn, máy móc vào tình hình Liên Xô và Đông Âu lúc bấy giờ. Do đó, sự sụp đổ của những mô hình này là không thể tránh khỏi. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết cách mạng, khoa học và sáng tạo. Chính nhờ học thuyết cách mạng ấy mà giai cấp vô sản toàn thế giới những năm đầu của thế kỷ XX đã làm nên cuộc cải biến vĩ đại chưa từng có trong lịch sử xã hội loài người mà mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, với sự ra đời nhà nước công công đầu tiên trên thế giới, đưa nhân loại bước vào thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Noi gương Cách mạng Tháng Mười, một loạt các nước ở khắp các châu lục trong đó có Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và lực lượng cánh tả kiên quyết đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, con đường mà Mác-Ănghel- Lênin đã chỉ ra.
Bài học thành công trong cải cách mở cửa, đổi mới của Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Triều Tiên và Cu Ba những năm qua đã minh chứng cho việc vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước, đó cũng chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác- Lênin trước những giọng điệu chống phá của các thế lực thù địch. Đối với Việt Nam, trong một thời gian dài tìm mọi cách bôi nhọ, nói xấu, nhằm hạ bệ thần tượng, thân thế, sự nghiệp và tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bị thất bại, hiện nay, các thế lực thù địch lại quay sang tuyên truyền kích động, lôi kéo những cá nhân có biểu hiện bất mãn với chế độ hoặc thiếu am hiểu tình hình gửi đơn thư, kiến nghị Đảng, Nhà nước ta bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Đấy chính là cái bẫy nguy hiểm của kẻ địch. Vì chúng cũng biết rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hệ thống những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về Đảng cộng sản Việt Nam, về Đại đoàn kết dân tộc, về vấn đề Nhà nước và pháp luật, đạo đức và nhân văn, về văn hoá và quân sự được Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và sau đó cùng những người yêu nước, cộng sản Việt Nam truyền bá và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà có thắng lợi như ngày hôm nay. Cho nên bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh và ngược lại, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là bảo vệ Chủ nghĩa Mác- Lênin nền tảng tư tưởng chỉ đường cho dân tộc ta tiến lên, chúng ta không một chút lơ là mất cảnh giác trước mọi hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích nhằm tìm ra nguyên nhân của sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu và đều có chung một nhận xét, nguyên nhân không ai khác, ngoài sự tiến công bằng chiến lược diễn biễn hoà bình của các thế lực thù địch từ bên ngoài vào Liên Xô và Đông Âu thì một trong những nguyên nhân sâu xa thuộc về chính những người đứng đầu Đảng cộng sản và Nhà nước Liên Xô và Đông Âu lúc bấy giờ là xa rời nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin, có nhận thức không đúng về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nóng vội chủ quan duy ý chí trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành các biện pháp cải tổ, cải cách sai nguyên tắc không phù hợp với tình hình thực tế của mỗi nước dẫn tới rối loạn xã hội làm thay đổi chế độ.
Như mọi người đều biết, sau khi Lê nin mất năm 1924, chính sách kinh tế mới NEP do người vạch ra không được tiếp tục thực hiện, thay vào đó là nền sản xuất kế hoạch hoá tập trung theo pháp lệnh từ bên trên dội xuống. Công bằng mà nói, chính sách này phát huy được tác dụng trong một giai đoạn nhất định, nhất là trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại, huy động cao và nhanh về sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Nhưng bước vào thời kỳ hoà bình, chính sách này tỏ ra không phù hợp nữa vì nó không động viên được năng lực, sức sáng tạo của người lao động, sản xuất không gắn liền với thị trường, thậm chí phủ định sạch trơn quan hệ sản xuất hàng hoá. Nền sản xuất kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì từ trước chiến tranh thế giới thứ 2 và kéo dài đến tận những năm 70 của thế kỷ xx, mặc dù đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết nhưng vẫn không được khắc phục, tình trạng tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền ở các cấp trong bộ máy lãnh đạo của Liên Xô và các nước Đông Âu rất phổ biến gây mất lòng tin của nhân dân, mối quan hệ giữa đảng với nhân dân ngày càng rạn nứt. Trong khi đó, thay vì phải sớm cải quan hệ sản xuất cho phù hợp với sức phát triển của lực lượng sản xuất, tuân thủ theo đúng qui luật của giá trị sản xuất hàng hoá, phát huy được năng lực sức sáng tạo của toàn xã hội thì những người đứng đầu Đảng và Nhà nước Liên Xô lại đề ra đường lối cải tổ về chính trị, đây là bước đi mạo hiểm, một sai lầm nghiêm trọng không có cơ hội cứu chữa. Do chưa được chuẩn bị kỹ về mọi mặt, nhất là công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân trước những quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước chưa thật sự thấu đáo, thêm vào đó, quá trình thực hiện lại thiếu những biện pháp đồng bộ. Ngay trong nội bộ Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, có nhiều sơ hở trong công tác tổ chức và cán bộ, để các phần tử cơ hội về chính trị chui sâu, leo cao vào các cơ quan trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước móc nối với các phần tử phản động từ bên ngoài do Mỹ và Phương Tây hậu thuẫn, chống phá Nhà nước Liên Xô và Đông Âu cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm tê liệt bộ máy lãnh đạo của Đảng, vì thế, khi đất nước có nguy biến, Đảng cộng sản Liên Xô và đảng cộng sản và công nhân ở các nước Đông Âu để mất vai trò lãnh đạo, nhanh chóng tan rã, tuyên bố tự giải tán, trao quyền lãnh đạo đất nước cho các lực lượng đối lập. Nhiều đảng cộng sản sau khi giải tán còn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, cấm hoạt động như Đảng Công nhân Thống Nhất Ba Lan, Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức…
Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể với những khuyết tật vốn có không thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội được duy trì quá lâu làm kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và cả nhận thức lệch lạc giáo điều cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội, sự vận dụng một cách dập khuôn, máy móc vào tình hình Liên Xô và Đông Âu lúc bấy giờ. Do đó, sự sụp đổ của những mô hình này là không thể tránh khỏi. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết cách mạng, khoa học và sáng tạo. Chính nhờ học thuyết cách mạng ấy mà giai cấp vô sản toàn thế giới những năm đầu của thế kỷ XX đã làm nên cuộc cải biến vĩ đại chưa từng có trong lịch sử xã hội loài người mà mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, với sự ra đời nhà nước công công đầu tiên trên thế giới, đưa nhân loại bước vào thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Noi gương Cách mạng Tháng Mười, một loạt các nước ở khắp các châu lục trong đó có Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và lực lượng cánh tả kiên quyết đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, con đường mà Mác-Ănghel- Lênin đã chỉ ra.
Bài học thành công trong cải cách mở cửa, đổi mới của Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Triều Tiên và Cu Ba những năm qua đã minh chứng cho việc vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước, đó cũng chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác- Lênin trước những giọng điệu chống phá của các thế lực thù địch. Đối với Việt Nam, trong một thời gian dài tìm mọi cách bôi nhọ, nói xấu, nhằm hạ bệ thần tượng, thân thế, sự nghiệp và tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bị thất bại, hiện nay, các thế lực thù địch lại quay sang tuyên truyền kích động, lôi kéo những cá nhân có biểu hiện bất mãn với chế độ hoặc thiếu am hiểu tình hình gửi đơn thư, kiến nghị Đảng, Nhà nước ta bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Đấy chính là cái bẫy nguy hiểm của kẻ địch. Vì chúng cũng biết rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hệ thống những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về Đảng cộng sản Việt Nam, về Đại đoàn kết dân tộc, về vấn đề Nhà nước và pháp luật, đạo đức và nhân văn, về văn hoá và quân sự được Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và sau đó cùng những người yêu nước, cộng sản Việt Nam truyền bá và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà có thắng lợi như ngày hôm nay. Cho nên bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh và ngược lại, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là bảo vệ Chủ nghĩa Mác- Lênin nền tảng tư tưởng chỉ đường cho dân tộc ta tiến lên, chúng ta không một chút lơ là mất cảnh giác trước mọi hành động chống phá của các thế lực thù địch.
La
Quang Mão
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông âu là do các thế lực thì địch chống phá
Trả lờiXóa