Lịch sử xây dựng và bảo vệ
đất nước Việt Nam thời trung đại cho thấy, các triều đại sau khi thống nhất
được lãnh thổ, hoặc đang cai trị đất nước thường có những chủ trương, chính
sách chiến lược về chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế, xã hội nhằm tạo sự ổn
định, phát triển đất nước một cách an ninh, bền vững. Một trong những chính
sách hết sức tích cực, sáng tạo, phát huy hiệu quả to lớn và lâu dài là chính
sách "Ngụ binh ư nông" tức "gửi binh vào nông" hay
"gửi quân lính về đồng ruộng".
Theo nhà sử học Phan Huy
Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí (tập II) thì: "Vào năm 1128
đời Lý Thần Tông, nhà vua cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng theo chế độ
xưa", ngoài quân cấm vệ lại có chín quân như sương quân: Để sai khiến làm
mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày
cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp lấy chứ không được cấp lương. Khi có chiến tranh
thì cho gọi ra lệ thuộc vào các tướng. Nếu số quân này không đủ thì chiểu sổ
dân ra tòng ngũ. Xong việc lại cho về làm ruộng". Có thể nhận thấy
“Ngụ binh ư nông” chính là sự kết hợp hài hòa giữa quân sự và kinh tế, có thể xoay
chuyển nhanh chóng tình thế từ thời bình sang thời chiến khi cần thiết, vừa
tăng cường sức lao động cho nền kinh tế, vừa giảm gánh nặng chi phí quốc phòng
cho đất nước. Nhờ chính sách này, các triều đại phong kiến đời Lý –Trần – Lê sơ
luôn có được một lực lượng quân sự hùng mạnh, đông đảo mà sản xuất nông nghiệp
vẫn ổn định. Như vào thời Lý có số quân huy động chống nhà Tống khoảng 10 vạn,
thời Trần lúc kháng chiến chống Nguyên-Mông có hơn 20 vạn, đến thời Lê sơ
khi có chiến tranh có thể huy động từ 25 đến 30 vạn quân.
“Ngụ binh ư nông” là
sự kết hợp được giữa chính sách xem binh là việc lớn của nước, với chính sách
trọng kinh tế - trọng nông, kinh tế chủ đạo thời phong kiến. Đường lối ấy, tổ
chức ấy xuất phát từ một nền văn minh nông nghiệp, từ thực tiễn của một dân tộc
với nền tảng kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước. “Dĩ nông vi bản”, “ngụ binh ư
nông” bảo đảm thế quân bình giữa kinh tế và quốc phòng, giữa lực lượng sản xuất
và lực lượng chiến đấu, bảo đảm mối quan hệ hỗ tương giữa tiền phương và hậu
phương trong chiến tranh giữ nước, bảo đảm sự hiện diện của một quân đội thường
trực tinh thông võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu, kết hợp với một lực lượng hùng hậu
quân hậu bị đông đảo, dễ dàng huy động. “Ngụ binh ư nông” đã phát huy tác dụng
tích cực, trên suốt chặng đường hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam.
Phát huy các giá trị
nghệ thuật quân sự đặc sắc của cha ông “Cử quốc nghênh địch”, “Tận
dân vi binh”, “Ngụ binh ư nông”, sau khicuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, nước
nhà thống nhất, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương đã quyết định kế hoạch xây dựng đất nước, huy động một số lực lượng, đơn
vị bộ đội tham gia phát triển kinh tế. Ví dụ như Bộ đội Trường Sơn, tất cả các
đơn vị của Bộ đội Trường Sơn khi kết thúc nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ đều
chuyển sang làm kinh tế. Những người
lính từ chiến trường chuyển sang lao động trên đồng ruộng, hầm mỏ, làm đường,
làm cầu, khai hoang, cùng nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh... Bộ đội là
lực lượng tập trung, có kỷ cương, kỷ luật đã cùng với nhân dân cần cù, hăng say
lao động để bước vào mặt trận mới, xây dựng đất nước sau chiến tranh, với tinh
thần, khí thế, quyết tâm mạnh mẽ, sắt đá. Chính điều đó đã giúp hậu quả chiến
tranh được khắc phục nhanh chóng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước dựa trên nền tảng là mối đoàn kết quân-dân, khi chuyển sang giai đoạn khôi
phục, xây dựng đất nước cũng là dựa trên cơ sở đó.
Quân đội làm kinh tế chính
là biểu hiện của kết hợp sức mạnh quân-dân, là tiếp nối thắng lợi của cuộc
chiến tranh nhân dân. Quân đội kết hợp với nhân dân, quân với dân một lòng thì
sức mạnh được nhân lên gấp bội. Nhiều năm qua, có khá nhiều nông, lâm trường ở
vùng biên giới, vùng xa, vùng hải đảo – các đặc khu kinh tế, quốc phòng được các
đơn vị Quân đội khai phá, sản xuất và quản lý. Các đơn vị này ngoài việc thường
xuyên được huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc, họ còn giúp dân xây
dựng nông thôn mới, cụ thể như các đơn vị Bộ đội biên phòng ở các vùng xa, biên
giới, hải đảo. Không ít các chiến sĩ, bộ đội đã trở thành "thầy giáo"
dạy chữ, "kỹ sư" nông nghiệp, "bác sĩ" điều trị cho nhân
dân ở những địa bàn nông thôn còn rất khó khăn.
Trong quá trình hội nhập quốc tế,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng
khoa học công nghệ 4.0 đang diễn ra trên toàn thế giới, các tổng công ty, các
tập đoàn và các doanh nghiệp Quân đội đã và đang chủ động đón bắt nhiệm vụ, thể
hiện vai trò quan trọng của mình, khi vừa phát triển sản xuất và cung cấp nhiều
sản phẩm cho xã hội, đầu tư rất lớn, tạo điều kiện để vùng sâu, vùng xa
phát triển; không chỉ dừng lại ở đó, đã có những tập đoàn kinh tế của Quân đội
vươn ra nước ngoài, vươn ra biển lớn kinh doanh hiệu quả mang lại nguồn ngoại
tệ lớn cho đất nước, đồng thời đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng bảo vệ Tổ quốc. Chính sự ổn định và lớn mạnh của các doanh nghiệp Quân
đội tham gia hoạt động kinh tế ở các lĩnh vực như: Bưu chính-Viễn thông
(Viettel); bay dịch vụ (Tổng công ty Trực thăng Việt Nam); dịch vụ ngân hàng
(MB); dịch vụ cảng biển (Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn)... đã góp phần đáng kể
vào sự phát triển kinh tế đất nước.
Dù rằng còn nhiều gian khó,
thách thức và còn có những doanh nghiệp quốc phòng hoạt động hiệu quả chưa cao,
tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò to lớn của các tập đoàn, doanh nghiệp Quân
đội trong tham gia phát triển kinh tế đất nước. Làm tốt chính sách “Ngụ binh ư
nông” thời hiện đại chính là góp phần thực hiện tư tưởng “Khoan thư sức dân là
kế sâu rễ bền gốc” của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn khi gửi gắm kế sách
giữ nước cho đời sau. Và vì vậy, đến nay, tư tưởng “Ngụ binh ư nông” vẫn
còn nguyên giá trị và cần được vận dụng linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả trong
tình hình mới của đất nước - "Ngụ binh ư nông" thời cách mạng
4.0!
NHN
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của các tập đoàn, doanh nghiệp Quân đội trong tham gia phát triển kinh tế đất nước.
Trả lờiXóa