Cách đây hơn 20 năm, Nghị quyết Trung ương ba
khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” được ban hành. Đây là sự thể chế hóa đường lối cán bộ của
Đảng nhằm tạo ra bước chuyển biến căn bản và toàn diện của đội ngũ
cán bộ. 20 năm qua, Chiến lược cán bộ đã hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của nó, tạo khung thể chế cho sự định hình và phát triển đội
ngũ cán bộ của thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Chiến lược cán bộ ra đời trong bối cảnh chuyển tiếp giữa hai thời kỳ phát triển của
đất nước: từ thời kỳ thực hiện các nhiệm vụ của chặng đường đầu
tiên chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sau
10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI của Đảng
(12-1986) khởi xướng, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội và tình trạng bị bao vây, cấm vận. Đại hội VIII của Đảng
(6-1996) chủ trương đưa đất nước chuyển sang một thời kỳ phát triển
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ứng với thời
kỳ phát triển mới của đất nước phải có đội ngũ cán bộ ngang tầm
cả vể bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, năng lực, kỹ năng, được chăm lo
xây dựng theo một chiến lược dài hạn, bài bản, khoa học, từng bước
khắc phục các cách làm chắp vá kiểu tư duy nhiệm kỳ và kinh nghiệm
chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, Đại hội VIII yêu cầu: “Tình hình và nhiệm
vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ. Toàn Đảng phải hết sức
chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững
vàng, đủ bản lĩnh về các mặt. Sớm xây dựng cho được một chiến lược cán bộ của
thời kỳ mới”.
Thể chế hoá đường lối Đại hội VIII của
Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã ban hành Nghị
quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Chiến lược cán bộ đã xác định quan
điểm, phương hướng cơ bản, các chính sách và giải pháp lớn để xây dựng đội ngũ
cán bộ đến năm 2020, trước mắt là chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ IX của
Đảng.
Những quan điểm đúng đắn, sáng tạo và
mục tiêu của Chiến lược cán bộ
Chiến lược cán bộ xác định rõ 5
quan điểm chỉ đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới
công tác cán bộ.
Một, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm
vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đai hóa nhằm thực hiện
thắng lợi muc tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công tác cán bộ được đổi mới có
vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó. Mặt khác, quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn
và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực của đội
ngũ cán bộ.
Hai, quán triệt quan điểm giai cấp công
nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Ba, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ
với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách.
Bốn, thông qua hoạt động thực tiễn và
phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển
chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Năm, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên hệ thống
chính trị.
Sau 10 năm thực hiện Chiến lược, Kết
luận của Hội nghị Trung ương 9 khóa X (1/2009) tiếp tục khẳng định
tính đúng đắn của các quan điểm đó, đồng thời làm sâu sắc hơn, bổ
sung thành 6 quan điểm. Đó là khẳng định vai trò, ý nghĩa
quyết định của cán bộ đối với thành bại của cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng, xem đây là công tác
thường xuyên của Đảng, gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Có thể nói, các quan điểm nêu trên đã
đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ mang tính
chiến lược dài hạn, được tiến hành bài bản, khoa học, đặc biệt là
những vấn đề cốt lõi như: vị trí, vai trò quyết định của đội ngũ
cán bộ trong công tác xây dựng Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng;
căn cứ xuất phát và mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ; trách nhiệm
lãnh đạo của Đảng cũng như các chủ thể khác trong hệ thống chính
trị; môi trường thực tiễn và điều kiện, tiền đề trực tiếp cho tuyển
chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ; vai trò nhân dân trong xây dựng và
giám sát cán bộ; các mối quan hệ lớn phải giải quyết như giữa
đường lối phát triển đất nước với đường lối cán bộ, giữa xây dựng
đội ngũ cán bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, giữa
đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa quán triệt
quan điểm giai cấp công nhân với mở rộng dân chủ, phát huy đại đoàn
kết dân tộc, giữa xây dựng cán bộ với xây dựng tổ chức bộ máy và
đổi mới cơ chế, chính sách... Tất cả những vấn đề nêu trên hợp
thành hệ quan điểm chỉ
đạo toàn bộ quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác
cán bộ qua 20 năm qua.
Về
mục tiêu: Chiến lược xác định xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và
năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến
lược cán bộ phân loại 4 nhóm đối tượng: cán bộ lãnh đạo lãnh đạo
Đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ
trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh.
Ngoài mục tiêu tổng quát, Chiến lược đề ra một
số mục tiêu cụ thể, theo đó mỗi nhiệm kỳ đổi mới khoảng 30-40% số cán bộ lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang và
phấn đấu đến năm 2020 số người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên bằng
khoảng 4% dân số cả nước.
Xác định tiêu chuẩn cán bộ của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong
thời kỳ mới mà Chiến lược cán bộ xác định là phải có tinh thần yêu
nước sâu sắc, hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng;
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức
khỏe… Trong các tiêu chuẩn đối với cán bộ, phải đặc biệt coi trọng cả “đức” và
“tài”, trong đó “đức” là gốc. Ngoài các tiêu chuẩn chung đó, cán bộ lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân còn phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, có
kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý, có năng lực dự báo và định hướng sự
phát triển, gương mẫu về đạo đức và lối sống. Đặc biệt là với nhóm cán bộ
này cần phải trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đối với cán bộ lãnh đạo
lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân
dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; có tinh thần cảnh giác cách
mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc
gia. Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia yêu cầu quan trọng là phải có
tư duy độc lập, sáng tạo, say mê trong nghiên cứu khoa học, có khả năng tổng
kết thực tiễn. Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ
nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, cán bộ quản lý kinh doanh phải hiểu biết sâu
sắc các quan điểm kinh tế của Đảng, có kiến thức về kinh tế thị trường và quản
trị doanh nghiệp, có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội,
không lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa hoa.
Nhìn lại 20 năm qua, việc thực hiện Chiến lược
cán bộ đã đạt được những kết quả quan trọng sau:
Về thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết: Quán triệt các quan điểm, mục tiêu và nhiệm
vụ, giải pháp Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII đề ra, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư các khóa VIII, IX, X, XI, XII đã ban hành 142 văn bản, trong đó có 07 nghị
quyết chuyên đề, 07 chỉ thị, 18 kết luận, 52 quy định và quy chế, 17 thông báo,
41 hướng dẫn về công tác cán bộ. Riêng từ đầu khóa XII đến nay, đã ban hành mới
26 văn bản để chấn chỉnh công tác cán bộ. Đó là Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày
25/01/2002 của Bộ Chính trị khóa IX về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp; Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý; Quyết định số 67 và 68-QĐ/TW, ngày 04/7/2007
của Bộ Chính trị khóa X về phân cấp quản lý, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng
cử; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị khóa XI về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Quy định số 89 và
90-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định
hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ thuộc
diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số
98-QĐ/TW, ngày 07/10/2017 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ; Quy định số
105-QĐ/TW, ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ
nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử...
Về xây dựng đội ngũ cán bộ: Sau 20 năm thực hiện Chiến lược, đội
ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng
ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh
vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới 40
tuổi công tác ở ban, bộ, ngành trung ương là 6,22%; ở cấp tỉnh là 6,41%; cấp
huyện dưới 35 tuổi là 6,5%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ diện Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý công tác tại địa phương tăng 2 lần trong
3 nhiệm kỳ qua, từ 10% lên 20%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ công tác ở các ban,
bộ, ngành trung ương là 13,03%. Nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch ở
các cấp khá dồi dào. Trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ được nâng lên đáng kể,
số người có trình độ đại học và trên đại học chiếm 7,3% dân số cả nước, trong
khi mục tiêu Nghị quyết đề ra là 4%. Việc thực hiện Chiến lược cán bộ, nhất là
sự kết hợp giữa các khâu của công tác cán bộ, nên việc chuẩn bị nhân sự cấp ủy
ở đại hội Đảng và nhân sự bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp mấy nhiệm kỳ gần đây khá thuận lợi; mỗi nhiệm kỳ đại hội, cấp ủy
các cấp đã được đổi mới khoảng 40%, trong khi mục tiêu Chiến lược đề ra
đổi mới từ 30 - 40%. Riêng Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đổi mới 42%, khóa X
đổi mới 54,7%, khóa XI đổi mới 47% và khóa XII đổi mới là 48%.
Nhìn chung, đa số cán bộ có lập trường tư
tưởng vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, có ý thức rèn luyện,
phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ năng động, sáng tạo,
thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc
tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy
tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định
đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh
đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với
Đảng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê
nghiên cứu, có nhiều đóng góp tích cực cho đất nước, một số
công trình khoa học có giá trị quốc tế. Theo Sách Trắng Khoa học công nghệ
2015, các công bố quốc tế của Việt Nam trong 15 năm qua tăng bình quân khoảng
17%/năm, nhất là một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, trong đó toán tối ưu đứng
đầu ASEAN và xếp thứ 19 thế giới, toán học xếp thứ hai ASEAN, vật lý lý thuyết
xếp thứ ba ASEAN. Một số lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng
nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có đóng
góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước những năm qua. Chỉ tính riêng trong
giai đoạn 2010 - 2017, vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong Khối Doanh nghiệp
Trung ương đạt trên 1.264.175 tỷ đồng, tăng 87%; lợi nhuận trước thuế đạt
801.419 tỷ đồng, tăng 12,5%/năm; nộp ngân sách nhà nước chiếm 26,85% tổng thu
ngân sách quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, sự trưởng thành,
phát triển của đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp nói riêng đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua.
Tuy
nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ không đồng
đều, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ còn xảy ra ở nhiều nơi. Không ít cán
bộ, kể cả cán bộ cấp chiến lược chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Trình độ
tư duy và khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế của
một bộ phận cán bộ còn chậm; năng lực tham mưu và tổ chức thực hiện còn hạn
chế. Không ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa gương mẫu, ngại việc
khó, thích nhận việc dễ, có nhiều lợi ích. Một bộ phận không nhỏ cán bộ thiếu
tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, thậm chí vi phạm pháp luật, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Những khuyết điểm, yếu kém của đội ngũ cán bộ đã hạn
chế đến khả năng phát huy các tiềm năng, thế mạnh khi thực hiện các
mục tiêu phát triển đất nước; xói mòn niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước; làm suy giảm uy tín, vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Chúng ta
có thể khẳng định, Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đã đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ
một cách bài bản, khoa học, mang tính chiến lược, bảo đảm sự thống
nhất giữa đường lối cán bộ với đường lối chính trị, giữa giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ với nâng cao năng lực thể chế hóa. Sự
trưởng thành và phát triển của đội ngũ cán bộ hai thập niên qua là
minh chứng sinh động khẳng định ý nghĩa, giá trị lich sử của Chiến
lược cán bộ. Độ lùi về thời gian sau hai thập niên là dịp chúng ta
có điều kiện chiêm nghiệm sâu sắc hơn về những thành công cần kế
thừa và phát huy, những hạn chế cần khắc phục và vượt qua, đúc kết
những bài học hữu dụng phục vụ cho tiếp tục xây dựng đội ngũ cán
bộ và đổi mới công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
giai đoạn mới. Chúng ta tuyệt đối tin tưởng vàò thành công của Hội nghị Trung ương 7 (khóa
XII), tin tưởng vào công tác xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ./.
Công tác cán bộ rất quan trọng; do đó phải được quan tâm đúng mức
Trả lờiXóa