Muốn trở thành một nhân cách chuẩn mực, hoàn thiện đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo những giá trị chân-thiện-mỹ; đồng thời phải có sự giáo dục, rèn luyện, dìu dắt của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và sự tương trợ, giúp đỡ, chia sẻ của đồng chí, đồng đội và nhân dân.
Ai tự tách mình ra khỏi tập thể, tổ chức, người đó khó có thể tiến bộ. Còn nếu người nào hay tự cho mình giỏi hơn người khác rồi có thái độ hãnh tiến, thiếu sự khiêm nhường, chừng mực cần thiết trong đối nhân xử thế và trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, lại là một biểu hiện của thói “kiêu ngạo cộng sản”.
Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, trong mối quan hệ ứng xử giữa người với người, hiểu đúng về mình đã khó, đánh giá chính xác người khác còn khó hơn nhiều. Vì bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, do đó khi xem xét, nhận định về nhân cách một con người, đòi hỏi phải có sự bình tĩnh, thận trọng, thấu đáo, khách quan. Bất cứ sự vội vàng, hời hợt, cẩu thả nào trong việc xem xét, đánh giá người khác cũng đều có thể gây ra những hệ lụy ngoài mong muốn cho cả những người phê bình và người được phê bình.
Một trong những nguyên tắc có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản đã được đúc kết là nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Đây cũng là một trong những chế độ sinh hoạt quan trọng được duy trì thành nền nếp của các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ. Không duy trì nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả chế độ này sẽ dẫn đến buông lỏng công tác lãnh đạo, làm suy giảm, thậm chí mất sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và là một trong những căn nguyên dẫn đến sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Thời gian qua, nhờ làm tốt chế độ tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng, nhất là sau khi có hai nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng (Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI (tháng 1-2012) và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII (tháng 10-2016), chúng ta đã phát hiện, chỉ ra được nhiều khuyết điểm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để từ đó tìm phương “điều trị” và “chữa lành” những “ung nhọt” có thể làm hủy hoại phẩm chất đạo đức, nhân cách những chiến sĩ trong đội tiền phong của Đảng. Thông qua phê bình, giám sát và kiểm tra, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đến nay, đã có hơn 53.000 đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật. Kết quả đó góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng, qua đó góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân.
Tuy vậy, trong khi đa số tổ chức đảng, đảng viên đã làm đúng mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình thì còn một số tổ chức đảng và đảng viên có biểu hiện lệch lạc trong thực hiện chế độ này. Đó là “Lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”-một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đã được chỉ ra trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII.
Nếu như bệnh nịnh nọt, ton hót, bợ đỡ người khác có nguy cơ làm méo mó, biến dạng văn hóa chính trị, đạo đức công vụ trong bộ máy công quyền; thì việc nói xấu, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác không đúng lúc, đúng chỗ, đúng mực cũng khiến cho nội bộ thêm lục đục, rối ren, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Dù tình trạng này diễn ra chưa phổ biến, nhưng cũng không còn là cá biệt. Cách đây chưa lâu, trong buổi tiếp xúc, trò chuyện với cử tri, một cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng đã tỏ ra băn khoăn, trăn trở khi thời gian càng gần đến đại hội đảng các cấp, tình trạng một số cán bộ, đảng viên nói xấu, phê phán với động cơ cá nhân hẹp hòi, viết đơn thư nặc danh tố cáo lẫn nhau xuất hiện ở một số tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương.
Những cá nhân lợi dụng phê bình để chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng thường mang thái độ thiên kiến, lòng dạ hẹp hòi, cố tình tìm ra sơ suất, sai sót của người khác theo kiểu “bới lông tìm vết”, “vạch lá tìm sâu”, rồi phân tích, mổ xẻ theo lối “chẻ sợi tóc làm tư” nhằm làm nghiêm trọng hóa vấn đề, mà thực chất là muốn hạ uy tín người khác trước tập thể. Có người lúc đầu thể hiện sự phê bình với mục đích đúng đắn, nhưng do thiếu phương pháp phê bình hợp lý, hợp tình, cá biệt có trường hợp tạo ra “dư luận giả” nhằm dồn đối tượng bị phê bình vào thế “chân tường” khiến hiệu quả phê bình không những không như ý muốn mà còn làm cho bầu không khí nội bộ của tổ chức, cơ quan, đơn vị thêm căng thẳng, nặng nề. Cũng vì xuất phát từ tâm địa nhỏ nhen, “không ưa thì dưa có dòi”, có người lợi dụng phê bình để moi móc, mạt sát, hạ bệ người khác, biến mối quan hệ từ đồng chí đồng đội thành “đối phương, đối thủ” của nhau.
Nói đến thái độ, phương pháp tự phê bình và tự phê bình, rất cần nhắc lại quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này. Theo Bác, đã là con người ai cũng có tính tốt, tính xấu, ai cũng có ưu điểm, nhược điểm, ai cũng có cái thiện, cái ác ở trong lòng. Vấn đề là ở chỗ “ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Trong tâm niệm của Bác, phương pháp nhìn nhận, ứng xử với cái thiện, cái tốt và cái ác, cái xấu của con người phải vừa bảo đảm tính khoa học, vừa thể hiện tính nghệ thuật. Khoa học nghĩa là hiểu tâm lý con người ai cũng muốn được khích lệ cái tốt để phát huy, nảy nở, lan tỏa trong cuộc sống; nghệ thuật là ở chỗ phải tìm cách ngăn ngừa, đẩy lùi, hạn chế cái xấu ra khỏi mỗi con người thì cần tiến hành từ từ từng bước với thái độ chân thành, khôn khéo. Nếu người phê bình bày tỏ thái độ gay gắt, thái quá vừa dễ làm người bị phê bình xấu hổ, tự ti, vừa có thể để lại hội chứng tâm lý “để bụng, thù ghét” không đáng có trong tâm trí họ.
Rất am hiểu tâm lý người Á Đông nói chung, người Việt nói riêng là sống trọng tình, trọng nghĩa, vì vậy Bác Hồ căn dặn chúng ta: “Hiểu Chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu Chủ nghĩa Mác-Lênin được”. Đặc biệt, trong Di chúc Bác viết năm 1969, ngay sau câu dặn dò: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”; Người nhắc nhở chúng ta: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Như vậy, một mặt, Bác yêu cầu phải thường xuyên, nghiêm túc tự phê bình và phê bình ở trong Đảng, mặt khác, Người không quên căn dặn trong cuộc sống, sinh hoạt, ứng xử với nhau và trong tự phê bình và phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên cần thể hiện tinh thần chân thành, cầu thị, nói sao cho lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ. Tự phê bình và phê bình chỉ trên cơ sở “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” mới phản ánh, thể hiện đúng bản lĩnh, tư chất văn hóa của những người cộng sản. Đó là thông điệp mang tính tầm cao và chiều sâu nhân văn mà Bác Hồ đã gửi gắm cho hậu thế.
Người ta thường nói, đến như hai anh em song sinh giống nhau như giọt nước mà nhiều khi tính cách không giống nhau; huống chi là một tổ chức, cơ quan, đơn vị bao gồm hàng chục, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn con người từ khắp các vùng miền với nhiều đặc điểm không giống nhau về thành phần xuất thân, tập quán, nếp nghĩ, nếp sống… Xuất phát từ tính chất đa dạng, phức tạp trong cá tính, đặc điểm nhân cách của mỗi con người, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên rất cần thể hiện thái độ đúng mực, phương pháp phê bình thấu tình đạt lý nhằm tạo điều kiện cho người khác đủ thấy khuyết điểm, sai sót của mình rồi tự giác, thành khẩn sửa chữa, khắc phục để ngày càng tiến bộ. Còn ai đó vẫn sa vào thói phê bình “nói cho bõ tức”, “nói cho hả lòng hả dạ”, nói như mắng mỏ, sỉ vả làm tổn thương tâm lý người khác là một lối phê bình vơi tình cạn nghĩa, từ đó làm rạn nứt mối quan hệ đồng chí đồng đội, gây mất đoàn kết nội bộ và suy giảm sức mạnh thống nhất của tập thể, tổ chức, cơ quan, đơn vị.
(NGUYỄN HỒNG SƠN - Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, Trường Sĩ quan Chính trị)
Bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa