1- Biển Đông là không gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam
Theo truyền thuyết, từ thời khởi thuỷ của dân tộc Việt Nam, Âu Cơ đã dẫn 50 người con lên rừng, còn Lạc Long Quân đã dẫn 50 người con xuống biển.
Theo lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam, đều cử các đội tàu biển ra khai thác hải sản, sa khoáng và khẳng định chủ quyền biển đảo, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo các hồ sơ mang tính pháp lý thời kỳ cận và hiện đại được lưu trữ trong các viện hàng hải thế giới, ở Pháp, Tây Ban Nha, thậm trí ở Trung Quốc đời nhà Thanh cũng xác định rõ và khẳng định 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam.
Đối với dân tộc Việt Nam, thì bất kỳ người Việt nào cũng nhận thức được rõ tầm quan trọng của biển đối với mỗi gia đình Việt, đối với các cộng đồng người Việt suốt hàng nghìn năm qua.
Xem xét dưới góc độ về quân sự, an ninh quốc phòng, môi trường, văn hóa,… chúng ta đều thấy rõ Biển Đông có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc Việt Nam chúng ta.
Riêng về lĩnh vực an ninh, quốc phòng, Biển Đông là tuyến phòng thủ hướng Đông của đất nước ta. Các đảo và quần đảo trên Biển Đông, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển qua lại trên Biển Đông mà còn có ý nghĩa phòng thủ quan trọng đối với Việt Nam, là cửa ngõ để Việt Nam có quan hệ trực tiếp với các vùng miền, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao đổi và hội nhập của nhiều nền văn hóa.
Ngay trong các Nghị quyết của Đảng như Nghị quyết 09-NQ/TW năm 2007 về Chiến lược biển Việt Nam cũng như Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2018 về Chiến lược phát triển kinh tế biển cũng đều khẳng định Biển Đông có vai trò sống còn đối với sự phát triển của đất nước. Cho nên, nếu để mất chủ quyền quốc gia trên biển là mất đi không gian sinh tồn của dân tộc chúng ta.
Không chỉ với riêng Việt Nam, Biển Đông gắn bó lợi ích với 10 nước ven bờ, có mối liên hệ với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Điều này giúp cho Việt Nam chúng ta có thể tận dụng sự ủng hộ của các quốc gia để cùng chung tay gìn giữ hòa bình và an ninh trên Biển Đông do đây là nơi có vị trí địa chiến lược toàn cầu. Các quốc gia có lợi ích ở Biển Đông phải ngăn cản mọi hành vi xâm phạm và quấy phá, đe dọa trên biển.
2- Âm mưu, tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông
Từ năm 1969 Trung Quốc càng để mắt tới Biển Đông sau dự báo Biển Đông là nơi có nguồn tài nguyên đặc biệt phong phú với trữ lượng dầu mỏ rất lớn. Âm mưu, tham vọng của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, độc chiếm kho tài nguyên thiên nhiên quý giá, họ muốn độc chiếm con đường hàng hải số một của thế giới để trở thành cường quốc biển, vươn lên trở thành siêu cường.
Thực ra ngay từ những năm 1949-1950 Trung Quốc đã công khai tham vọng độc chiếm Biển Đông. Tham vọng này được thể hiện ở Hội nghị Sanfrancisco năm 1951, và thể hiện bằng việc sử dụng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo phía Đông thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1956.
Năm 1958 Trung Quốc tuyên bố toàn bộ Biển Đông cũng như hai quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ. Tiếp đến, đầu năm 1974, lợi dụng tình hình quan hệ quốc tế, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của chúng ta. Rồi năm 1988 họ lại dùng vũ lực đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 23/6/2012, chỉ 2 ngày sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Biển Việt Nam, Trung Quốc ngang ngược tuyên bố mời thầu thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam. Tiếp đó, ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam khoảng 120 hải lý về phía Đông. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982.
Và hiện nay là việc tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc được các tàu hải cảnh và dân binh hộ tống xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tiến hành các hoạt động khảo sát trái phép. Những hành động này vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước Luật biển 1982.
Tuy nhiên, việc Trung Quốc tham vọng và có làm được hay không lại là vấn đề khác, nhưng âm mưu, chiến lược của họ về Biển Đông buộc chúng ta phải dứt khoát. Không phải mọi thứ Trung Quốc muốn là Trung Quốc làm được, nhất là tham vọng trên Biển Đông. Các quốc gia có lợi ích ở Biển Đông phải ngăn cản mọi hành vi xâm phạm và quấy phá, đe dọa trên biển.
3- Trách nhiệm của mỗi chúng ta
- Cần tỉnh táo và tuyệt đối không mơ hồ về âm mưu, tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông.
- Tin tưởng vào đối sách của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề trên Biển Đông. Đó là, kiên trì, kiên quyết giải quyết các vấn đề theo luật pháp quốc tế và lợi ích giữa 2 quốc gia, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Không khiếu khích và mắc mưu khiêu khích. Không liên kết quân sự để chống nước thứ ba.
- Không để lòng yêu nước cho kẻ xấu lợi dụng vấn đề này để kích động biểu tình chống phá nhà nước, đập phá tài sản công và của các công ty nước ngoài như những năm qua.
- Hãy yêu nước và nhìn nhận, đánh giá, giải quyết các vấn đề bằng "trái tim nóng và cái đầu lạnh".
----------------------
Phạm Ngọc Kết thân ái chào bà con và các đồng chí!
----------------------
Phạm Ngọc Kết thân ái chào bà con và các đồng chí!
Phạm Ngọc Kết
Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa là của Việt Nam
Trả lờiXóa