Gần đây, Đảng, Nhà nước ta ban hành các chủ trương, chính
sách, luật pháp nhằm kiểm soát quyền lực, đặc biệt là Quy định số 205-QĐ/TW của
Bộ Chính trị về việc “Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy
chức, chạy quyền”. Cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao còn các
thế lực thù địch cho rằng “không thể kiểm soát được quyền lực, không thể có dân
chủ nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không từ bỏ độc quyền lãnh đạo”. Có thực như vậy
không?
Để góp phần bác bỏ luận điệu võ đoán nêu trên, trước hết
phải có sự thống nhất trong quan niệm về dân chủ. Dân chủ (tiếng Anh là
Democracy) có gốc từ tiếng Hy Lạp; nghĩa gốc của từ cũng là nghĩa cơ bản của
khái niệm “chính quyền của dân, thực hiện quyền lực của dân”. Dân chủ là một
hình thức (cách thức, kiểu) tổ chức nhà nước mà trong đó “quyền lực phải thuộc
về số đông, phục vụ cho nhu cầu của số đông và vì quyền lợi của số đông”(1).
Hiện nay, khi định nghĩa về dân chủ, hầu hết các nhà lý luận, chính khách và
các nhà hoạt động xã hội đều ưa thích sử dụng cách diễn đạt của Abraham
Lincoln, Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ: “Dân chủ là chính quyền của dân, do dân
và vì dân”. Người vạch rõ bản chất của một xã hội được coi là dân chủ, chỉ rõ
nguồn gốc quyền lực thuộc về nhân dân chính là Các Mác. Ông viết: “Dưới chế độ
dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp tồn tại vì
con người; ở đây, sự tồn tại của con người là luật pháp, trong khi đó thì dưới
những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy
định bởi luật pháp. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”(2).
Quan niệm này đặc biệt sâu sắc, theo đó, con người trong cuộc sống hiện thực
của nó không phải là cái được quy định bởi luật pháp mà ngược lại, chính luật
pháp phải là cái phù hợp với sự tồn tại của con người.
Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là từ Đại hội VI
(1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân
chủ XHCN ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Dân là
chủ”, “Dân làm chủ”, “Dân là gốc”, “Nước ta là nước dân chủ”, “Dân chủ là cái chìa
khóa vạn năng”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” và quan trọng hơn là
phải làm cho dân được hưởng quyền làm chủ xã hội trên thực tế.
Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta cho rằng: “Nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam phải vừa thể hiện các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại,
vừa thể hiện những giá trị đặc trưng phản ánh bản sắc, đặc điểm văn hóa, truyền
thống của Việt Nam; có nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ
công dân nhằm tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi
năng lực sáng tạo của con người, gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN, trong đó nhân dân là chủ thể của các thiết chế chính trị và Nhà nước theo
đúng nguyên lý chủ quyền nhân dân được quy định trong Hiến pháp 2013”(3) .
Thực tiễn xây dựng nền dân chủ của các quốc gia, dân tộc
trên thế giới, kể từ nền dân chủ Athens (Hy Lạp) đến nay trải qua gần 3.000 năm
đã khẳng định: Dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng và
thực hiện đa nguyên, đa đảng không có nghĩa là có dân chủ, phát triển.
Chủ nghĩa đa nguyên do nhà triết học Đức Chiristian Wolff
(1679-1754) đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên lấy xã hội tư sản
dựa trên chế độ tư hữu làm mẫu, cho rằng xã hội luôn được chia nhỏ thành cơ số
các nhóm cá thể, nhóm, tầng lớp, tập đoàn, phân biệt bằng tài sản và thu nhập,
tín ngưỡng, tôn giáo, đảng phái, nghề nghiệp... Chủ nghĩa đa nguyên phủ nhận
đấu tranh giai cấp, chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên
tắc đa lực lượng, đa đảng và các đảng phái quan hệ với nhau theo nguyên tắc
hiệp thương. Cũng trong thế kỷ XVIII, cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống
lại chế độ phong kiến chuyên chế đã dẫn tới sự ra đời học thuyết tam quyền phân
lập của Charles Louis Montesquieu (1689-1755). Ông chia quyền lực nhà nước
thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, ba nhánh quyền lực này
phải do các cơ quan nhà nước riêng biệt đảm nhiệm để có thể đối trọng, kiềm chế
lẫn nhau. Học thuyết “tam quyền phân lập” là một bước tiến bộ rất lớn so với
chế độ quân chủ phong kiến, đặc biệt là trong đầu thế kỷ XXI, nhiều nước tư bản
hiện đại với những điều chỉnh để thích nghi đã đạt được những bước tiến lớn
trong xây dựng nền dân chủ.
Tuy có những mặt tích cực, nhưng học thuyết “tam quyền phân
lập” cũng bộc lộ nhiều hạn chế và đã bị chính các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ
phê phán. Jean Jacques Rousseau (1712-1778) cho rằng, các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp tự bản thân nó là thống nhất, đó chỉ là các mặt biểu hiện của
quyền lực thống nhất tối cao thuộc về nhân dân. Theo ông, quyền lập pháp luôn
gắn với chủ quyền quốc gia, đó là ý chí của nhân dân có chủ quyền quyết định.
Vì vậy, quyền hành pháp chỉ là được ủy quyền và phục vụ chủ quyền nhân dân,
quyền tư pháp phải lệ thuộc và tuân theo pháp luật, nhưng có tính độc lập tương
đối với lập pháp và hành pháp. Rõ ràng, nhà nước “tam quyền phân lập” có mặt
tích cực trong hạn chế lạm quyền, tùy tiện sử dụng quyền lực nhưng mặt khác lại
tạo ra cơ chế kiềm chế, cản trở việc hình thành các cơ cấu, tổ chức nhà nước.
Vì vậy, trong thực tiễn, để khắc phục, các nhánh quyền lực nhà nước, các chính
đảng buộc phải tìm cách thỏa hiệp với nhau, các lực lượng đối lập vì lợi ích
cục bộ mà phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải - trái,
đúng - sai. Hệ quả là “làm xuất hiện một nền chính trị vì quyền lực và một công
nghệ đấu đá chính trị”(4).
Nguyên tắc phân quyền chỉ tồn tại khi có sự tranh giành
quyền lực giữa các thế lực xã hội khác nhau. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Vào thời điểm
đầu năm 1930, nước ta vẫn là một xứ thuộc địa của Pháp. Các cuộc khai thác
thuộc địa của Pháp ở Đông Dương đã thúc đẩy quá trình phân hóa xã hội thêm gay
gắt. Sau giai cấp công nhân, giai cấp tư sản cũng ra đời, là một giai cấp nhỏ
yếu, chủ yếu là những nhà buôn cung cấp dịch vụ cho giới chủ của “chính quốc”
Pháp và do đó hầu hết lệ thuộc chính trị vào các ông chủ. Giai cấp tư sản dân
tộc ở Việt Nam mà đại diện là Việt Nam Quốc dân đảng do lãnh tụ Nguyễn Thái Học
đứng đầu đã tham gia phong trào yêu nước nhưng thiếu đường lối đúng đắn, thiếu
lòng tin vào sức mạnh của nhân dân, đã phiêu lưu khởi nghĩa giành chính quyền
thông qua cuộc khởi nghĩa Yên Bái ngày 10-2-1930 với phương châm “không thành
công thì cũng thành nhân”. Kết quả là cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thực dân Pháp
dìm trong bể máu, khiến tình thế dân tộc “đen tối như không có đường ra”. Không
một đảng phái chính trị nào còn tồn tại dưới sự “khủng bố trắng” của thực dân
Pháp.
Giữa lúc đó thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đường lối của
Đảng chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc, vạch rõ đối tượng và lực lượng cách
mạng, chủ trương con đường “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối đúng đắn đó ngay lập tức chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng đường lối cứu nước. Năm 1945, chỉ với khoảng 5.000 đảng viên nhưng
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám, một cuộc cách
mạng “long trời lở đất”, đưa Việt Nam từ xứ thuộc địa trở thành nước độc lập. Ở
thời điểm đó, nhân dân ta chỉ thừa nhận duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng
lãnh đạo; nhưng do tình thế đất nước thù trong, giặc ngoài “ngàn cân treo sợi
tóc”, nhân dân ta đã chấp nhận cho hai đảng chính trị phản động tồn tại là Việt
Quốc và Việt Cách. Khi quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, cả hai đảng này đã bám gót
quan thầy, bỏ chạy khỏi đất nước, bỏ lại cả 70 ghế trong Quốc hội mà nhân dân
ta đã “nhượng” cho họ không qua bầu cử. Sau ngày 30-4-1975, ở nước ta tồn tại 3
đảng chính trị, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam và
Đảng Xã hội Việt Nam. Hai đảng này đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta,
sau đó đã tuyên bố tự giải tán.
Điểm lại đôi nét về lịch sử các đảng chính trị tại Việt Nam
để thấy rằng, việc Đảng ta trở thành đảng lãnh đạo duy nhất ở Việt Nam là một
quá trình lịch sử tự nhiên, hoàn toàn khách quan, do nhân dân tin tưởng và giao
phó trọng trách. Ở bất kỳ thời kỳ lịch sử nào, Đảng cũng luôn khẳng định mình
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam.
Đảng hoạt động không có mục đích tự thân. Thành công không thể phủ nhận của
cách mạng Việt Nam trong 89 năm qua, cũng là thành công trong việc giành và giữ
chính quyền của dân, do dân và vì dân. Chính vì thế, năm 2010, trả lời phỏng
vấn báo chí Ấn Độ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước) khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì
ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều
quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên hay
không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị
trường thì phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có
chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”(5).
Sẽ khách quan hơn khi chúng ta tham khảo kết quả nghiên cứu
một công trình do Viện phát triển quốc tế Harvard, Trường Đại học Harvard (Hoa
Kỳ). Công trình này đánh giá Đảng Cộng sản Việt Nam “là một đảng mà sự tồn vong
và thắng lợi cuối cùng đã dựa vào việc huy động sự ủng hộ của quần chúng và
Đảng đã có được sự chấp nhận rộng rãi của quần chúng”, “Ở Việt Nam trong tương
lai khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng
cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam”(6)
Tuy nhiên, sau hơn 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu
to lớn, thực tiễn xây dựng nền dân chủ ở nước ta cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất
cập. Trước hết là dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, nguyên tắc tập
trung dân chủ thực hiện chưa nghiêm dẫn đến tình trạng “thành tích là của cá
nhân, khuyết điểm là do tập thể”. Việc Đảng ban hành hai Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI và khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã khẳng định vấn đề này.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền còn những bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ các
nguyên tắc cơ bản: Thượng tôn pháp luật; hoạt động thực sự dân chủ; chăm lo,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân... Nguyên tắc “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” chưa
được thể chế hóa đầy đủ, cụ thể và rành mạch thành cơ chế đồng bộ để nhân dân
thực sự là chủ và làm chủ các quá trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,
làm chủ theo tinh thần “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Cơ chế
kiểm soát quyền lực của Đảng, Nhà nước chưa đầy đủ, chưa đồng bộ; nỗ lực ban
hành các văn bản lãnh đạo, quản lý nhằm kiểm soát quyền lực của Đảng, Nhà nước
chậm đi vào thực tế cuộc sống; tình trạng lạm quyền, tham quyền, tha hóa quyền
lực đã gây bức xúc trong xã hội...
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, kiến tạo một
nền dân chủ mà nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân trong điều kiện
một đảng cầm quyền, Đảng ta đã xây dựng rất nhiều nghị quyết về xây dựng nền
dân chủ XHCN của nước ta và khẳng định những giải pháp căn bản sau đây:
Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự
trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh, thật sự vì lợi ích của nhân
dân, của dân tộc. Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội; quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển đất nước; quyết định
những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị,
đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo của mình, dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước không có quyền lực tự thân, nhà
nước thực hiện quyền lực do nhân dân ủy thác thông qua Hiến pháp và pháp luật;
thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành luật pháp để quản lý xã hội,
phát triển đất nước.
Ba là, phát huy đầy đủ vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội đại diện cho ý chí và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, tham gia
ý kiến vào các quyết định của Đảng, Nhà nước đồng thời thực hiện vai trò kiểm
tra, giám sát, phản biện đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước trong việc thực
hiện quyền lực nhân dân.
Tóm lại, dân chủ vừa là mục tiêu, động lực; vừa là bản chất
của Đảng, Nhà nước ta. Điều 3, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Nhân dân ta mong muốn gì hơn thế nữa? Vấn đề then chốt của
kiến tạo nền dân chủ ở Việt Nam chính là thực hiện cho bằng được các mục tiêu
về xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay./.
Nội dung bài viết rất hay, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa