Cách đây 70 năm, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở vào
giai đoạn cam go, quyết liệt nhất, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết bài Dân vận, đăng trên báo Sự thật, số ra ngày 15/10/1949. Ngắn gọn và súc
tích, tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa cô đọng tư tưởng của
Người về công tác dân vận, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thấm nhuần lời dặn của V.I.Lênin: “Không có sự đồng tình ủng
hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối
với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”[1] và nhận
thức sâu sắc rằng “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[2], Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin về
vận động quần chúng kiểu mới để tiến hành công tác dân vận.
GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN, “VẬN ĐỘNG TẤT CẢ LỰC LƯỢNG CỦA MỖI MỘT
NGƯỜI DÂN”
Tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa những giá
trị căn cốt về dân vận; trong đó, Người khẳng định bản chất của “NƯỚC TA LÀ
NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[3].
Thấm nhuần lời của cổ nhân “chở thuyền cũng là dân”, “lật
thuyền cũng là dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, muốn tuyên truyền, vận động và
phát huy nguồn sức mạnh nội lực của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước, Đảng và cả hệ thống chính trị phải gắn bó mật thiết với nhân dân;
phải tốt công tác dân vận, bởi “trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập
thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng
chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước”[4]. Hơn nữa, “chúng
ta phải thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta
còn kém, mà công việc thì nhiều”, cho nên, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải
thường xuyên “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của
dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[5].
Cũng theo lời Người, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước dù đúng đắn, nhưng nếu không được sự đồng lòng, ủng hộ của nhân
dân thì rất khó đi vào hiện thực cuộc sống; nhưng muốn được nhân dân ủng hộ thì
phải thực hiện tốt công tác dân vận, “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”.
Nghĩa là, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gần dân, hết lòng yêu dân, kính dân,
hiểu dân, phải: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến
dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta,
kính ta”[6]; cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành
của nhân dân, vì “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này
khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan
cách mạng”[7].
Muốn đạt được như vậy, mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm
dân vận, đều phải biết: 1) “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân
không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những
công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[8], để
đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân. 2) Phải khắc phục kiểu suy
nghĩ và làm việc từ “trên dội xuống”, chỉ thích lãnh đạo, “thích làm việc bằng
giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương
kiểm tra công tác”[9]; “làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh
lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa
ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”[10] - “cái lối làm việc như vậy
rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được
tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành
được đến nơi, đến chốn”[11]. 3) Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn,
với bất cứ việc to, việc nhỏ, thì “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực
của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”[12].
Cụ thể, để dân vận đúng và hiệu quả, mỗi người khi tiến hành
dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền
đơn, chỉ thị”[13] mà phải chú trọng thực hiện sự phối hợp đồng bộ giữa chính
quyền, các đoàn thể chính trị với công tác tuyên truyền vận động quần chúng
trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, đáp ứng yêu cầu, lợi ích, quyền lợi của nhân dân theo phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên tinh thần đó, người làm dân vận
phải: Một là, “tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ ràng: Việc đó
là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”. Hai
là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của
dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi
động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. Ba là, “trong lúc thi hành phải theo
dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”. Bốn là, “khi thi hành xong phải cùng
với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CÙNG LÀM DÂN VẬN
Một trong những nội dung quan trọng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh: Dân vận không phải là việc riêng của một hai người, một hai ban, ngành,
không chỉ là công tác của các đoàn thể vận động quần chúng mà phải là của cả hệ
thống chính trị, là “tất cả cán bộ chính quyền. Tất cả cán bộ đoàn thể. Tất cả
hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) đều phải phụ
trách dân vận”[14]. Cụ thể, theo Người, cán bộ chính quyền và các Đoàn thể địa
phương là những người trước tiên phải làm/phụ trách dân vận, phải phối hợp chặt
chẽ, “cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi
giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức phân công,
sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi giúp đỡ dân giải quyết những
điều khó khăn…”[15]; “các cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa
phương, đi sát với dân”; “hội viên các đoàn thể thì phải xung phong thi đua
làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”. Bởi, cán bộ chính quyền là một
thành tố hệ thống chính trị, nếu trong quá trình thực hiện chức năng quản lý
kinh tế - xã hội của mình mà làm công tác dân vận không tốt, nhất là sa vào
quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà cho dân, thì công tác dân
vận cũng vẫn không mang lại hiệu quả thiết thực.
Để làm dân vận đúng và tốt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Những
người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải
thật thà nhúng tay vào việc”[16]. Đó phải là những người luôn tự mình làm gương
thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải “học hỏi quần chúng
nhưng không theo đuôi quần chúng” và “phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu,
chủ quan, bàn giấy”[17],v.v.. để nhân dân noi theo, vì quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức, những người luôn lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ. Hơn nữa, vì “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”,
cho nên, “muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải
chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói”, rồi “phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại
cho có ngăn nắp, thứ tự rồi cùng dân chúng ra sức thi hành”[18]... Trong bất cứ
hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên cũng phải chú trọng thực hiện lời Người dặn và
nhất thiết phải khắc phục “khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân
vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ.
Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom,
giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có
hại”[19].
Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận chính
là: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[20]. Điều đó có
nghĩa là, dân vận tốt sẽ góp phần vào thành công của cách mạng, còn dân vận kém
sẽ gây chia rẽ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm tổn
hại phong trào cách mạng, đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ. Vì thế, tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, tấm gương làm dân vận mẫu mực của Người
- của “một vị lãnh tụ thực sự liên hệ sâu sắc với quần chúng, mà nói như vậy
cũng không đủ, phải nói là một vị lãnh tụ kiệt xuất đã hoà sâu trong nhân dân
Việt Nam, thực sự trở thành một thể thống nhất với nhân dân Việt Nam”[21], luôn
hết lòng yêu thương nhân dân, vì nhân dân phục vụ đã được Đảng ta thấm nhuần và
thực hiện.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong
hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định
công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng;
là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, đã có nhiều nghị
quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về tăng cường công tác dân vận được ban
hành. Theo đó, cấp ủy, các cấp chính quyền, đoàn thể một mặt đã chú trọng thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho quyền làm chủ của người dân ngày càng
được phát huy, tôn trọng; mặt khác, tăng cường công tác vận động quần chúng
tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động về xây dựng đời
sống văn hóa, nông thôn mới, bảo vệ an ninh Tổ quốc... góp phần tạo sự đồng
thuận trong xã hội.
Phong trào “Dân vận khéo” và việc xây dựng mô hình “Dân vận
khéo” cụ thể, thiết thực, phù hợp điều kiện thực tế ở các địa phương đã góp
phần từng bước tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, bức xúc trong nhân dân. Việc
chỉ đạo đăng ký các mô hình “Dân vận khéo” gắn với đấu tranh phòng, chống lãng
phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng và thực hành tiết kiệm góp phần thiết thực
vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong
sạch, vững mạnh. Thông qua đó, phát huy cao độ tinh thần tự quản và ý thức cộng
đồng của nhân dân trong xây dựng khu dân cư văn hóa, văn minh đô thị, xóa bỏ
các tập tục lạc hậu, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, củng
cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.
TIẾP TỤC THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG “DÂN VẬN KHÉO” CỦA CHỦ TỊCH HỒ
CHÍ MINH
Tuy nhiên, thực tế triển khai công tác dân vận cũng còn
những hạn chế, cần phải khắc phục, đó là, việc thể chế hoá chủ trương, quan
điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Việc triển khai thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa hiệu quả. Công tác kiểm tra, sơ kết,
tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận
chưa được quan tâm đúng mức, chưa trở thành hiện thực sinh động trong cuộc
sống.
Cụ thể, một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích
của nhân dân vẫn chưa được giải quyết kịp thời; đặc biệt, quyền làm chủ của
nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, tệ nạn nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân,
nhất là “tham nhũng vặt” vẫn còn không ít ở địa bàn cơ sở đã làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong khi đó, một số cấp ủy chưa nhận thức
đầy đủ vị trí, vai trò của công tác dân vận; ở một số địa bàn cơ sở, tổ chức
Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội giảm sút vai trò lãnh
đạo, thiếu sự phối hợp trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân; một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn
thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… Thực trạng
này đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương
khóa XI ngày 3/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới”.
Thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập
và làm theo tấm gương mẫu mực của Người về dân vận, nhất là để “tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Củng cố vững chắc niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân… Phát huy sức mạnh to lớn của nhân
dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[22],
trong thời gian tới, các cấp ủy và cả hệ thống chính trị cần tập trung thực
hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về vai trò, mục đích, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân
vận trong tình hình mới. Cụ thể, gắn thực hiện công tác dân vận với Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính
trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” và Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa XI về “Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”.
Thứ hai, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, đa
dạng các phương pháp, hình thức dân vận phù hợp điều kiện cụ thể của địa
phương, mỗi địa bàn cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”; đồng thời, thông qua các hình thức, biện pháp sinh động, phong phú
tuyền truyền, giáo dục để nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, hiểu
biết pháp luật cho nhân dân, để nhân dân thực hiện tốt vai trò “là chủ”, “làm
chủ” của mình. Gắn thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” với đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác dân vận, để các tầng lớp
nhân dân đều có thể thông qua diễn đàn Mặt trận bày tỏ chính kiến của mình.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động
và kịp thời nắm bắt nhanh tình hình, tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của người dân
để tham mưu Đảng, Chính phủ điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính
sách, pháp luật cũng như công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Thông qua đó,
bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhân dân, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân
tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhân nguồn sức mạnh nội lực của khối đại
đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác dân vận ở các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu của thực tiễn;
trong đó, chú trọng nâng cao trình độ và tinh thần, trách nhiệm của người làm
dân vận trên tinh thần “không để sót một người dân nào” và “dân vận khéo thì
việc gì cũng thành công”. Đồng thời, quan tâm tạo điều kiện về vật chất,
tinh thần và cơ chế để các tổ chức và người làm công tác dân vận hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao; xây dựng phong cách trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, nâng cao trách nhiệm với dân và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin”.
Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Dân vận
khéo” trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Duy trì, nâng cao chất lượng,
hiệu quả các mô hình, điển hình đã có và tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô
hình, điển hình mới. Chú trọng xác định nội dung trọng tâm phong trào thi đua
“Dân vận khéo”, mô hình “Dân vận khéo” phù hợp với điều kiện từng địa bàn cơ
sở, từng đối tượng gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động,
trọng tâm là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh”, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, bảo
đảm quốc phòng - an ninh, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước./.
Công tác dân vận rất quan trọng, nên phải dân vận thật khéo
Trả lờiXóa