Chiến thắng 30/4/1975-nghệ thuật kết thúc chiến tranh
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc 21 năm kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng chiến thắng 30/4/1975. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là điển hình về nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ và chọn thời cơ để kết thúc chiến tranh, hoàn thành mục tiêu hòa bình, thống nhất đất nước
Thời cơ
Lịch sử dân tộc đã chứng minh, trong thuật dùng binh, thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Muốn có thời cơ, thì phải biết tạo thời cơ. Khi thời cơ đến thì phải tận dụng và tranh thủ, không được bỏ lỡ.
Nguyễn Trãi, nhà chiến lược lớn thế kỷ
XV, gửi thư cho Vương Thông (1427) vạch rõ nguy cơ bại vong nếu quân Minh vẫn
ngoan cố giữ thành chờ viện binh và khẳng định: Người giỏi dùng binh là ở chỗ
biết rõ thời thế. Được thời, có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất
thời, không thế thì mạnh hóa ra yếu, yếu lại thành nguy; sự thay đổi ấy chỉ
trong khoảng bàn tay[1].
Thời cơ cách mạng cũng được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhắc đến trong bài Học đánh cờ:
Lạc nước, hai xe đành bỏ
phí
Gặp thời, một tốt cũng
thành công[2].
Gặp thời chính là vấn đề nắm thời cơ, đó
là lúc cùng xuất hiện những điều kiện thuận lợi trên mọi lĩnh vực, tạo ra một
bước ngoặt mới. Trong quá trình thực hiện mục tiêu chiến lược đánh cho Mỹ cút,
ngụy nhào, việc tạo và nắm thời cơ đã được Đảng thực hiện tài tình, chủ động
kết thúc chiến tranh vào một thời cơ thuận lợi nhất, giành thắng lợi vẻ vang
nhất.
Thời cơ chiến lược sau 20 năm
chiến đấu
Sau Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và đồng minh
phải rút khỏi Việt Nam trong 60 ngày. Đến ngày 29/3/1973, những người lính viễn
chinh Hoa Kỳ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục viện
trợ cho chính quyền Sài Gòn. Trong năm tài chính 1974, Hoa Kỳ viện trợ cho
chính quyền Sài Gòn 650 triệu đô-la [3].
Tháng 8/1974, sự kiện Watergate làm rúng
động đời sống chính trị-xã hội Hoa Kỳ, khiến Richard Nixon phải từ chức. Gerald
Ford kế nhiệm, đặt vấn đề ổn định nội bộ lên hàng đầu. Hoa Kỳ chủ trương cắt
giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa, khiến cho chính quyền và quân đội Sài Gòn,
tồn tại chủ yếu nhờ viện trợ nước ngoài, rơi vào khó khăn. Nguyễn Văn Thiệu
thừa nhận sự cắt giảm viện trợ của Hoa Kỳ đã khiến cho quân đội Sài Gòn mất 60%
tiềm năng chiến đấu[4].
Trước tình hình này, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng họp từ ngày 30/9 đến ngày 8/10/1974 đi đến nhận định quan trọng về
vấn đề thời cơ chiến lược: “Lúc này, chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm
chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp
giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn. …Mỹ thì đã thua, đang rút ra, trước
mắt muốn giữ tình hình miền Nam ổn định trong một số năm để nguỵ quyền tiếp tục
đứng vững và Mỹ có thời gian vượt qua những khó khăn lớn về kinh tế và chính
trị trong nước. Riêng lực lượng so sánh giữa ta và nguỵ thì ta đang ở thế
thắng, thế tiến lên; trái lại, vì thất bại liên tiếp thế và lực của nguỵ, cả về
chính trị và quân sự, đang xuống dốc. Xét tất cả các mặt nói trên, chúng ta
khẳng định đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng
miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời
giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài thời cơ
này, không có thời cơ nào khác” và quyết định: “đánh mạnh, đánh nhanh, thắng
gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975 - 1976[5].
Yếu tố bất ngờ
Bất ngờ nhằm buộc đối phương bị động đối
phó những tình huống ngoài dự tính. Bất ngờ là yếu tố quan trọng để tạo ưu thế,
phát huy sức mạnh của ta, khoét sâu chỗ yếu và hạn chế chỗ mạnh của đối phương,
nhằm tranh thủ thời cơ tốt để tiến công.
Đảng phán đoán “Mỹ không còn khả năng
quay lại” và xác định: “Thời cơ này đòi hỏi phải làm nhanh, làm gọn, làm triệt
để, nhưng phải khôn khéo. Có như thế mới tạo được bất ngờ, không ai kịp trở
tay” [6].
Khi cuộc họp bàn về tình hình cách mạng
miền Nam đang diễn ra thì tin giải phóng Phước Long (6/1/1975) báo về. Phước
Long được giải phóng là minh chứng cho thấy sự rệu rã của chính quyền Sài Gòn,
cũng là phép thử cho khả năng can thiệp trở lại của Hoa Kỳ. Quyết tâm giải phóng
miền Nam ngay trong năm 1975 hoặc chậm nhất là năm 1976 đã được Bộ Chính trị
đưa ra ngay tại Hội nghị tháng 1/1975 này.
Đối phương bất ngờ với đòn nghi binh hoàn
hảo-chiến dịch Tây Nguyên. Khi đó, ở Tây Nguyên, Quân Giải phóng có 2 sư đoàn:
sư đoàn bộ binh 10 bám ở Kon Tum, sư đoàn 320 bám ở Nam Pleiku. Nghi binh đánh
lừa cho địch lầm tưởng ta đánh Kon Tum, Gia Lai, nhưng thực tế ta điều quân
xuống phía Nam Tây Nguyên, chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột. Lực lượng chính cơ động
xuống phía Nam Tây Nguyên. Mở đầu, ta đánh đường 19, 14, 21 nhằm chia cắt, bao
vậy. Ta chọn Buôn Ma Thuột là đánh vào mục tiêu hiểm yếu nhất. Khi mất Buôn Ma
Thuột, rung chuyển cả Sài Gòn, lan tới Nhà Trắng và Lầu Năm Góc.
Chính quyền Sài Gòn tiếp tục bị bất ngờ
với những đòn tiến công liên tục, thọc sâu, bao vây, đập tan lá chắn phòng ngự
kiên cố nhất ở phía Bắc, giáng đòn phủ đầu, đập tan kế hoạch phòng ngự co cụm
mới của địch trong chiến dịch Trị Thiên-Huế. Chớp thời cơ thần tốc, không cho
đối phương kịp trở tay, tạo thế trận bao vây địch như thiên la, địa võng, sử
dụng bộ binh cơ giới trong hành tiến để tấn công.
Ngày 25/3/1975, Quân ủy Trung ương quyết
định mở chiến dịch tiến công Đà Nẵng. Ngày 26/3, chiến dịch Đà Nẵng khai hỏa,
sau 2 ngày, ta đã đập tan toàn bộ hệ thống phòng ngự vòng ngoài của địch. Hỏa
lực được bổ sung, sáng 28/3, quân ta áp sát thành phố Đà Nẵng từ nhiều hướng.
Tiến công bằng hành tiến với bộ binh trên xe tăng và dùng hỏa lực xe tăng bắn
phá đội hình của địch.
Trước nguy cơ bị bao vây, tiêu diệt, quân
đội Việt Nam Cộng hòa tan rã, mạnh ai nấy chạy. 15h ngày 29/3/1975, ta làm chủ
căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Ngày 23/4/1975, hai ngày
sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, nhận thấy vận mệnh chính trị của chính quyền
miền Nam Việt Nam là không thể cứu vãn, tại Trường Đại học New Orleans, Tổng
thống Gerald Ford phải thừa nhận trong sự tuyệt vọng: “Cuộc chiến tranh ở Việt
Nam đã chấm dứt đối với Hoa Kỳ”[7].
Thời cơ quyết định
Thời cơ quân sự và chính trị để giải
phóng Sài Gòn đã đến. Ta quyết định mở chiến dịch tiến công mang tên Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa. Các lực lượng
chiến lược được huy động cho chiến dịch này. Thần tốc, bất ngờ, trận quyết
chiến chiến lược cuối cùng phá tan mưu đồ củng cố lực lượng của địch, sức chiến
thắng như chẻ tre, nén đau thương tiến về phía trước.
Những trọng điểm tiến công trong mùa Xuân
năm 1975 cho thấy sự đúng đắn của Đảng trong việc xác định thời cơ tiến công,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính những sự bất ngờ đó đã làm cho
thời cơ mới liên tiếp xuất hiện. Thời cơ cách mạng đó do chính nhân dân Việt
Nam, quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo ra và biết nắm
lấy. Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng phản ánh tinh thần cách mạng triệt
để không ngừng. Phải tranh thủ thời gian, tiến công địch vào lúc chúng đã hoang
mang suy sụp. Tập trung lực lượng áp đảo trên những mục tiêu chủ yếu, trong
từng lúc và trên từng hướng, để nhanh chóng tạo thời cơ mới, kịp thời tận dụng
thời cơ đó, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác cho tới khi kết thúc
chiến tranh, toàn thắng vào ngày 30/4/1975 lịch sử.
-----------------
[1] Nguyễn Trãi: Quân trung từ mệnh tập.
[2] Hồ Chí Minh: Nhật ký trong tù, Nxb. Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2020,
tr.33.
[3] CIA: Suplemental
response to part I of NSSM 213: The South Vietnamese Economy and US aid (secret
sensitive), DCI/NIO 027-75, Jan 7, 1975, p.1.
[4] Trung tâm lưu trữ quốc gia II: Về đại thắng mùa Xuân năm 1975 qua tài liệu chính quyền Sài Gòn, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010, tr.307.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004, t.35, tr 177, 178, 179, 185.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr 179-180.
Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử, khẳng định tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
Trả lờiXóa