GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phản động luôn cố gắng truyền bá luận điệu cho rằng, vì chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời cho nên không thể xây dựng xã hội mới tốt đẹp trên nền tảng học thuyết đó. Vì thế, làm sáng tỏ bản chất vấn đề này là một yêu cầu bức thiết trong cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch. Trên cơ sở tất yếu khách quan ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin; bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin... Qua đó, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị.
Thời gian gần đây, một số người, trong số đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư hiện nay. Trong nội dung bài viết tác giả xin được trao đổi để làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở để khẳng định rằng: Giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời.
1. Chủ nghĩa Mác -
Lênin ra đời là một tất yếu khách quan.
Học
thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Thời kỳ
này, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở các nước Tây Âu
trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ
nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, cùng với đó là sự
phát triển cả về số lượng và chất lượng của giai cấp vô sản. Mâu thuẫn sâu sắc
giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính tư
nhân tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội tư bản càng trở nên gay gắt, hàng loạt
cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản đã diễn ra: Cuộc khởi nghĩa của
công nhân ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) từ năm
1835 đến năm 1848; cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844,… Đó
là những bằng chứng lịch sử thể hiện sự phát triển nhanh chóng của giai cấp vô
sản, vai trò to lớn của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ,
công bằng và tiến bộ xã hội. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu
cầu khách quan là phải có lý luận khoa học, cách mạng soi đường. Chủ nghĩa Mác
ra đời là tất yếu khách quan trước đòi hỏi của thực tiễn cách mạng; đồng thời,
chính thực tiễn cách mạng cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và
phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
Chủ
nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn
là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực
tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp. Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen
và Phơbách đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp
luận triết học của chủ nghĩa Mác. Công lao của Hêghen là cùng với việc phê phán
phương pháp siêu hình, lần đầu tiên trong lịch sử tư duy của nhân loại, ông đã
diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua
một hệ thống các quy luật, phạm trù. Trên cơ sở phê phán tính chất duy tâm thần
bí trong triết học Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa phép biện chứng của
ông để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Với Phơbách, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã phê phán nhiều hạn chế cả về phương pháp, cả về quan điểm, đặc biệt những
quan điểm liên quan đến các vấn đề xã hội; song, cả hai đều đánh giá cao vai
trò tư tưởng của Phơbách trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
Chủ nghĩa duy vật, vô thần của Phơbách đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển
biến của C.Mác và Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật
- một tiền đề lý luận của quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ cách
mạng sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
Kinh
tế chính trị cổ điển Anh với những đại biểu lớn là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô,
đã góp phần tích cực vào quá trình hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của
chủ nghĩa Mác. Kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị lao động
và những tư tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, Mác đã giải
quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh đã không
thể vượt qua được để xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng khoa
học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế của sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cũng như sự ra đời tất nhiên của chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có một quá trình phát triển lâu dài và đạt
đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu
là Sanh Simông, Phuriê. Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét tinh thần
nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Song, chủ nghĩa xã hội không tưởng
đã không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản và
cũng không nhận thức được vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân với tư cách
là lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội
bình đẳng, không có bóc lột. Tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của
các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng về lịch sử, về đặc trưng của xã hội tương
lai đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của
lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác.
Cùng
với những tiền đề kinh tế-xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự
nhiên cũng vừa là tiền đề, vừa là luận cứ và là những minh chứng khẳng định
tính đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác; trong đó,
trước hết phải kể đến phát hiện quy luật bảo toàn và biến hóa năng lượng, thuyết
tiến hóa và thuyết tế bào.
Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh khoa học về sự không tách
rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của
vật chất; thuyết tiến hóa đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển
đa dạng bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật,
động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên; thuyết tế bào đã xác định được sự
thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chấtcủa cơ thể thực vật,
động vật và giải thích quá trình phát triển trong mối liên hệ của chúng. Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào là những
thành tựu khoa học bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học về vai trò của
Đấng Sáng tạo; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về vật chất vô cùng, vô tận,
tự vận động, tự tồn tại, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện chứng; khẳng
định tính khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức thực tiễn.
Như vậy,
sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là sản phẩm của tình
hình kinh tế-xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh
vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những
người sáng lập ra nó.
V.I.Lênin
là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi chủ nghĩa tư bản đã
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông không chỉ là người kế tục trung
thành học thuyết khoa học, cách mạng của C.Mác và Ph. Ăngghen mà còn bổ sung,
phát triển toàn diện học thuyết Mác, nâng nó lên tầm cao mới, chuyển lý luận
thành thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa; làm cho chủ nghĩa Mác thật sự trở
thành hệ tư tưởng thống trị trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
giúp giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại trong
một mặt trận thống nhất để chống kẻ thù chung - chủ nghĩa tư bản phản động, bảo
vệ quyền sống làm người chính đáng của mình.
V.I.Lênin
đã vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào giải quyết thành công mối quan
hệ giữa tuyệt đối trung thành và phát triển sáng tạo, giữa bảo vệ, gìn giữ và bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đưa ra những
nhận định, kết luận đúng đắn, chính xác, làm cơ sở phương pháp luận khoa học để
định ra đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người và giải phóng nhân loại. Đồng thời, kế thừa, gìn giữ, bảo vệ những cái
đúng, cái tiến bộ và lọc bỏ, đào thải những cái sai, cái lỗi thời trên tinh thần
phê phán, vượt bỏ mọi thiên kiến để tiến lên phía trước, đáp ứng nhanh nhạy, kịp
thời, chính xác những đòi hỏi của cuộc sống, yêu cầu nhiệm vụ bức thiết của thực
tiễn cách mạng đang đặt ra.
V.I.Lênin
tìm ra những đặc điểm cơ bản và quy luật vận động của chủ nghĩa đế quốc, giới hạn
tồn tại của nó - điểm “cốt lõi”, nấc thang cuối cùng của chủ nghĩa tư bản để vạch
trần ngọn nguồn bí mật của xã hội tư bản, giúp giai cấp vô sản nhận thức đúng
âm mưu, bản chất phản động, sự lừa gạt, tráo trở của giai cấp tư sản và giới
trí thức tư sản theo đuôi nó đang cản trở tiến bộ lịch sử. Để cách mạng thắng lợi,
V.I.Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo đảm quyền lãnh đạo tuyệt đối của
giai câp vô sản, Đảng Cộng sản phải trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước
và xã hội; đồng thời, phải xây dựng được khối liên minh công nông, khối liên
minh giữa các dân tộc bị áp bức, bóc lột thành một khối đoàn kết, thống nhất,
có sức mạnh vững chắc.
Bảo vệ
và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản và về
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một trong những cống hiến xuất sắc của V.I.Lênin.
Phê phán quan điểm sai lầm của chủ nghĩa cơ hội - xét lại và “chủ nghĩa xã hội
chân chính” về vấn đề này, V.I.Lênin chỉ rõ: Chuyên chính vô sản là điểm cốt
lõi, trọng yếu trong lý luận về nhà nước của C. Mác, là linh hồn của chủ nghĩa
Mác. Việc thừa nhận hay phản đối chuyên chính vô sản là hòn đá thử vàng để phân
biệt lập trường, quan điểm của người cộng sản với bọn cơ hội, xét lại và các phần
tử lưu manh. Chuyên chính vô sản là công cụ sắc bén và đặc biệt cần thiết của
giai cấp vô sản để trấn áp bọn phản cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế
độ xã hội mới.
Để
xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng lực lượng sản xuất
hiện đại, quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với một kiến trúc thượng tầng mới;
nhân tố mang ý nghĩa quyết định giúp giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản
và chủ nghĩa tư bản cả về năng xuất lao động, cả về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, theo V.I. Lênin, là tiếp nhận được tinh hoa và vận dụng sáng tạo học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, nhất là vận dụng sáng tạo
các quy luật của nó; đồng thời, phải tuyệt đối giữ vững vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là xóa đói nghèo, làm cho
đất nước giàu mạnh, văn minh, thực hiện công bằng, dân chủ trong xã hội mới.
Cùng với đó, V.I.Lênin nhấn mạnh yêu cầu phải tiến hành thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước, xây dựng cho được nền công nghiệp nặng, giải phóng
đôi tay người lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Như vậy,
dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa học về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy
luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy
luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng, phát triển đi tới chủ
nghĩa cộng sản. Trên cơ sở nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác,
Ph.Ăngghen đã phê phán chủ nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật
trong sự tồn tại và phát triển của nó. Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản đương thời,
từ phát hiện tính quy luật của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người
C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ
thay thế chủ nghĩa tư bản.
Thực
tiễn đã chứng minh, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thể hiện vẫn không nằm ngoài
tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng
đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra làm
cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng đã làm tăng thêm tiềm lực cho chủ
nghĩa tư bản. Đồng nghĩa với đó, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội
hóa của lực lượng sản xuất, dẫn đến hố sâu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa
càng trở nên sâu sắc. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi toàn thế giới
đã kéo theo sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản được mở rộng mạnh mẽ ra
ngoài chính quốc. Về bản chất, sự bóc lột ấy không khác việc các nước tư bản đi
xâm chiếm thuộc địa, chỉ có điều nó được che đậy bằng lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều
hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động
bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.
Vì vậy,
không thể nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Chủ nghĩa Mác - Lênin
không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin
mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học
và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin
để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền lợi của một nhóm người tư bản hoặc được
hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản. Nếu có lỗi thời
chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc,
chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết
các vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mà thôi. Tuyệt nhiên không
thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin.
2.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ
nghĩa Mác - Lênin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác và
Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển, được hình thành và phát triển
trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại;
là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn
cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân
dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
Chủ
nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ mật
thiết với nhau đó là: Triết học Mác - Lênin, kinh tế học chính trị Mác- Lênin
và chủ nghĩa xã hội khoa học. Triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới
quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, kinh tế học chính trị
Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy
luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới, phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất
nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế học
chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan
của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Bản chất khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện:
Một là, phương pháp biện chứng duy vật.
Phương
pháp biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự kế thừa sáng tạo có phê phán toàn bộ
những thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại.
Được chứng minh bởi những thành tựu khoa học lớn của thời đại C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin sống, cũng như nhiều thành tựu khoa học của thời đại ngày nay. Phương
pháp biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý,
những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn thế giới hiện
thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế, một khi những quy luật đó
còn còn phản ánh đúng bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người thì
phương pháp biện chứng duy vật còn có giá trị, còn là công cụ nhận thức của con
người và không thể lỗi thời. Ví dụ, V.I.Lênin đã phát triển lý luận nhận thức
và chỉ ra rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân
lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”[1].
Đây chính là quy luật về tư duy của con người trong quá trình nhận thức thế giới.
Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới; là
tiêu chuẩn của chân lý, tiêu chuẩn đánh giá kết quả nhận thức. Đến ngày nay thì
giá trị của lý luận nhận thức đó không thay đổi và không hề lỗi thời. Bản tóm tắt cuốn sách của Hê‐ghen ‘khoa học lô‐gích’
Hai là, quan niệm duy vật về lịch sử.
Lần đầu
tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, C.Mác đã phát hiện ra tính quy luật
của sự phát triển xã hội loài người. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của
C.Mác như phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đác-uyn đã
tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển
của lịch sử loài người: Cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp tư
tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở
và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v.
được”[2].
Các quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người đã được lý giải, phân
tích trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Chính sự phát triển của kinh tế, mà trước
hết của lực lượng sản xuất, đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với những
quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời. Thông qua cách mạng xã hội, mâu thuẫn được
giải quyết, phương thức sản xuất mới được ra đời. Chính điều này đã thúc đẩy xã
hội phát triển từ thấp lên cao. C.Mác đã chỉ ra vị trí, vai trò của các chủ thể,
các hình thức tổ chức cộng đồng người và mối quan hệ của các tổ chức, cá nhân
xã hội trong sự tác động qua lại suy đến cùng tuân theo sự vận động tổng hợp của
quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Chứng minh cho giai cấp vô sản thấy được sứ mệnh lịch
sử to lớn của mình, tự giác bước lên vũ đài chính trị. C.Mác đã loại bỏ được
quan điểm duy tâm về xã hội. Nói chung, quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở
phương pháp luận giúp con người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách đúng đắn
và còn nguyên giá trị, không thể lỗi thời cho dù trong điều kiện của cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra.
Ba là, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội.
Trên
cơ sở nghiên cứu tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội loài người là sự phát
triển có quy luật. Những yếu tố cốt lõi quy định tiến trình phát triển của xã hội
chính là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Lịch sử phát triển của xã hội loài người
là quá trình lịch sử - tự nhiên với sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế
- xã hội từ thấp lên cao. Nguyên nhân khách quan, nội tại dẫn tới sự thay thế,
tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Xét trong điều
kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới thì sự thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội có thể là tuần tự từ thấp đến cao, có thể là sự sự bỏ qua
một hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Chính điều này đã
dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều của các dân tộc, quốc gia trên thế
giới. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng, con người không thể chủ
quan, tùy tiện xóa bỏ quy luật khách quan của lịch sử, nhưng con người có thể
tác động, thúc đẩy quy luật đó diễn ra nhanh hay chậm. Cùng với quan niệm duy vật
về lịch sử, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội tạo thành cơ sở cho phương
pháp luận khoa học trong nhận thức thực tiễn xã hội, giúp cho con người cải tạo
xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Bốn là, lý luận về giá trị thặng dư.
Khi
nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra quy luật
giá trị thặng dư, đồng thời chỉ ra nguyên nhân và cơ chế vận hành của sự bóc lột
đối với công nhân, người làm thuê của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cho đến nay, lý luận về giá trị thặng dư của C.Mác vẫn còn nguyên giá trị, nó
giúp cho giai cấp vô sản nhận thức rõ bản chất bóc lột của giai cấp tư sản. Bên
cạnh đó, lý luận về sở hữu, về xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết
lập sở hữu công hữu lvề tư liệu sản xuất là những giá trị bền vững của kinh tế
- chính trị Mác - Lênin. Ngày nay, sự phát triển vũ bão của khoa học - công nghệ,
nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý luận về giá
trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu, trở nên lỗi thời, mà ngược lại, đã và đang
minh chứng cho tính đúng đắn của những lý luận đó.
Năm là, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, về những đường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Chủ nghĩa xã hội tất
yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản dựa trên tính quy luật của sự phát triển thay
thế các hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin là người trực tiếp vận dụng học
thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen để tiến hành cách mạng xã hội, xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô. Như vậy, trong sự vận động tổng thể theo quy
luật của xã hội loài người, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn chưa
thể bị thời gian vượt qua.
Sáu là, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết mở.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không cứng nhắc, bất biến mà đòi hỏi
phải luôn được bổ sung, phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Toàn bộ học thuyết Mác - Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện chứng
của nó, với bản chất cách mạng, khoa học, nhân đạo, chủ nghĩa Mác - Lênin sống
mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế
giới và là nền tảng, tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần
kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng
ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[3].
Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng
và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những
là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng
lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Về bản
chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống mở, luôn
được bổ sung, phát triển. Ngay từ năm 1887, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý luận của
chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người
ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[4]. V.I.Lênin
sau này cũng đã không ít lần nhắc lại lời Ph.Ăngghen và khẳng định lại luận điểm
kinh điển ấy của chủ nghĩa Mác.
C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm
phạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các ông
luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý
cơ bản sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa…của
mỗi nước. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh của
cách mạng Việt Nam bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như
các Đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cũng cho thấy bản chất vốn có
của chủ nghĩa Mác - Lênin là sáng tạo và phát triển. Chính nhờ có sáng tạo mà
chủ nghĩa Mác - Lênin được phát triển, chính phát triển lại là điều kiện cho những
người mácxít vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong điều kiện cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, chủ nghĩa Mác -
Lênin vẫn trang bị cho chúng ta cơ sở phương pháp luận cho nhận thức tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người; cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh của con người
để ngày càng thích ứng hài hòa với môi trường tự nhiên, cho cuộc đấu tranh để
giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, vì sự tiến bộ và hạnh phúc. Vì thế,
chủ nghĩa Mác - Lênin còn
nguyên giá trị đối với thực tiễn hiện nay. Những sự sai lầm của những người phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở, lý do để họ
phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc nghiên cứu, chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc
chủ nghĩa Mác - Lênin góp phần bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời giúp những người cộng sản nâng cao nhận thức của
mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, biết vận dụng có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn.
Nguyễn Bá Hà
#sqct
#BảovệnềntảngtưtưởngcủaĐảng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ph.Ăngghen
(1883), “Lễ An táng Các Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 19, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995.
2. Ph.Ăngghen (1887), “Gửi Pôn La - Phác - Gơ, 28 tháng
Giêng 1887”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 1999.
3. Hồ
Chí Minh (1960), “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh Toàn tập,
tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.
4.
V.I.Lênin (1914), “Bút ký triết học”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006.
[1] V.I.Lênin (1914), “Bút ký triết học”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 29, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 179.
[2] Ph.Ăngghen (1883), “Lễ An táng Các Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập,
tập 19, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 1995, tr. 499 - 500.
[3] Hồ Chí Minh (1960),
“Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ
Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
tr. 563.
[4] Ph.Ăngghen (1887), “Gửi Pôn La - Phác - Gơ, 28 tháng Giêng 1887”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1999, tr. 796.
bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa