Social Icons

Pages

Thứ Ba, 25 tháng 4, 2023

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phản động luôn cố gắng truyền bá luận điệu cho rằng, vì chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời cho nên không thể xây dựng xã hội mới tốt đẹp trên nền tảng học thuyết đó. Vì thế, làm sáng tỏ bản chất vấn đề này là một yêu cầu bức thiết trong cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch. Trên cơ sở tất yếu khách quan ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin; bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin... Qua đó, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị.

Thời gian gần đây, một số người, trong số đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư hiện nay. Trong nội dung bài viết tác giả xin được trao đổi để làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở để khẳng định rằng: Giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời.

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời là một tất yếu khách quan.

Học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Thời kỳ này, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở các nước Tây Âu trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp đã chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, cùng với đó là sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của giai cấp vô sản. Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội tư bản càng trở nên gay gắt, hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản đã diễn ra: Cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) từ năm 1835 đến năm 1848; cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844,… Đó là những bằng chứng lịch sử thể hiện sự phát triển nhanh chóng của giai cấp vô sản, vai trò to lớn của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải có lý luận khoa học, cách mạng soi đường. Chủ nghĩa Mác ra đời là tất yếu khách quan trước đòi hỏi của thực tiễn cách mạng; đồng thời, chính thực tiễn cách mạng cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.

Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và Phơbách đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác. Công lao của Hêghen là cùng với việc phê phán phương pháp siêu hình, lần đầu tiên trong lịch sử tư duy của nhân loại, ông đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua một hệ thống các quy luật, phạm trù. Trên cơ sở phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa phép biện chứng của ông để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Với Phơbách, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán nhiều hạn chế cả về phương pháp, cả về quan điểm, đặc biệt những quan điểm liên quan đến các vấn đề xã hội; song, cả hai đều đánh giá cao vai trò tư tưởng của Phơbách trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật, vô thần của Phơbách đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của C.Mác và Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật - một tiền đề lý luận của quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.

Kinh tế chính trị cổ điển Anh với những đại biểu lớn là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô, đã góp phần tích cực vào quá trình hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác. Kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, Mác đã giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt qua được để xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế của sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cũng như sự ra đời tất nhiên của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có một quá trình phát triển lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu là Sanh Simông, Phuriê. Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Song, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản và cũng không nhận thức được vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội bình đẳng, không có bóc lột. Tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng về lịch sử, về đặc trưng của xã hội tương lai đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác.

Cùng với những tiền đề kinh tế-xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự nhiên cũng vừa là tiền đề, vừa là luận cứ và là những minh chứng khẳng định tính đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác; trong đó, trước hết phải kể đến phát hiện quy luật bảo toàn và biến hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào.

Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh khoa học về sự không tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất; thuyết tiến hóa đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên; thuyết tế bào đã xác định được sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chấtcủa cơ thể thực vật, động vật và giải thích quá trình phát triển trong mối liên hệ của chúng. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào là những thành tựu khoa học bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học về vai trò của Đấng Sáng tạo; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về vật chất vô cùng, vô tận, tự vận động, tự tồn tại, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện chứng; khẳng định tính khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức thực tiễn.

Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là sản phẩm của tình hình kinh tế-xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.

V.I.Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông không chỉ là người kế tục trung thành học thuyết khoa học, cách mạng của C.Mác và Ph. Ăngghen mà còn bổ sung, phát triển toàn diện học thuyết Mác, nâng nó lên tầm cao mới, chuyển lý luận thành thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa; làm cho chủ nghĩa Mác thật sự trở thành hệ tư tưởng thống trị trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; giúp giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại trong một mặt trận thống nhất để chống kẻ thù chung - chủ nghĩa tư bản phản động, bảo vệ quyền sống làm người chính đáng của mình.

V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào giải quyết thành công mối quan hệ giữa tuyệt đối trung thành và phát triển sáng tạo, giữa bảo vệ, gìn giữ và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đưa ra những nhận định, kết luận đúng đắn, chính xác, làm cơ sở phương pháp luận khoa học để định ra đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và giải phóng nhân loại. Đồng thời, kế thừa, gìn giữ, bảo vệ những cái đúng, cái tiến bộ và lọc bỏ, đào thải những cái sai, cái lỗi thời trên tinh thần phê phán, vượt bỏ mọi thiên kiến để tiến lên phía trước, đáp ứng nhanh nhạy, kịp thời, chính xác những đòi hỏi của cuộc sống, yêu cầu nhiệm vụ bức thiết của thực tiễn cách mạng đang đặt ra.

V.I.Lênin tìm ra những đặc điểm cơ bản và quy luật vận động của chủ nghĩa đế quốc, giới hạn tồn tại của nó - điểm “cốt lõi”, nấc thang cuối cùng của chủ nghĩa tư bản để vạch trần ngọn nguồn bí mật của xã hội tư bản, giúp giai cấp vô sản nhận thức đúng âm mưu, bản chất phản động, sự lừa gạt, tráo trở của giai cấp tư sản và giới trí thức tư sản theo đuôi nó đang cản trở tiến bộ lịch sử. Để cách mạng thắng lợi, V.I.Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo đảm quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai câp vô sản, Đảng Cộng sản phải trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội; đồng thời, phải xây dựng được khối liên minh công nông, khối liên minh giữa các dân tộc bị áp bức, bóc lột thành một khối đoàn kết, thống nhất, có sức mạnh vững chắc.

Bảo vệ và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản và về xây dựng chủ nghĩa xã hội là một trong những cống hiến xuất sắc của V.I.Lênin. Phê phán quan điểm sai lầm của chủ nghĩa cơ hội - xét lại và “chủ nghĩa xã hội chân chính” về vấn đề này, V.I.Lênin chỉ rõ: Chuyên chính vô sản là điểm cốt lõi, trọng yếu trong lý luận về nhà nước của C. Mác, là linh hồn của chủ nghĩa Mác. Việc thừa nhận hay phản đối chuyên chính vô sản là hòn đá thử vàng để phân biệt lập trường, quan điểm của người cộng sản với bọn cơ hội, xét lại và các phần tử lưu manh. Chuyên chính vô sản là công cụ sắc bén và đặc biệt cần thiết của giai cấp vô sản để trấn áp bọn phản cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới.

Để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với một kiến trúc thượng tầng mới; nhân tố mang ý nghĩa quyết định giúp giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản cả về năng xuất lao động, cả về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo V.I. Lênin, là tiếp nhận được tinh hoa và vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, nhất là vận dụng sáng tạo các quy luật của nó; đồng thời, phải tuyệt đối giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là xóa đói nghèo, làm cho đất nước giàu mạnh, văn minh, thực hiện công bằng, dân chủ trong xã hội mới. Cùng với đó, V.I.Lênin nhấn mạnh yêu cầu phải tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, xây dựng cho được nền công nghiệp nặng, giải phóng đôi tay người lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.

Như vậy, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng, phát triển đi tới chủ nghĩa cộng sản. Trên cơ sở nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác, Ph.Ăngghen đã phê phán chủ nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản đương thời, từ phát hiện tính quy luật của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.

Thực tiễn đã chứng minh, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thể hiện vẫn không nằm ngoài tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng đã làm tăng thêm tiềm lực cho chủ nghĩa tư bản. Đồng nghĩa với đó, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của lực lượng sản xuất, dẫn đến hố sâu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa càng trở nên sâu sắc. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi toàn thế giới đã kéo theo sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản được mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Về bản chất, sự bóc lột ấy không khác việc các nước tư bản đi xâm chiếm thuộc địa, chỉ có điều nó được che đậy bằng lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.

Vì vậy, không thể nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền lợi của một nhóm người tư bản hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản. Nếu có lỗi thời chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mà thôi. Tuyệt nhiên không thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin.

2. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển, được hình thành và phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại; là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.

Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau đó là: Triết học Mác - Lênin, kinh tế học chính trị Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, kinh tế học chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế học chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện:

Một là, phương pháp biện chứng duy vật.

Phương pháp biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự kế thừa sáng tạo có phê phán toàn bộ những thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại. Được chứng minh bởi những thành tựu khoa học lớn của thời đại C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sống, cũng như nhiều thành tựu khoa học của thời đại ngày nay. Phương pháp biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế, một khi những quy luật đó còn còn phản ánh đúng bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người thì phương pháp biện chứng duy vật còn có giá trị, còn là công cụ nhận thức của con người và không thể lỗi thời. Ví dụ, V.I.Lênin đã phát triển lý luận nhận thức và chỉ ra rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”[1]. Đây chính là quy luật về tư duy của con người trong quá trình nhận thức thế giới. Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới; là tiêu chuẩn của chân lý, tiêu chuẩn đánh giá kết quả nhận thức. Đến ngày nay thì giá trị của lý luận nhận thức đó không thay đổi và không hề lỗi thời. Bản tóm tắt cuốn sách của Hêghen khoa học lôgích’

Hai là, quan niệm duy vật về lịch sử.

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, C.Mác đã phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội loài người. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: Cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. được”[2]. Các quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người đã được lý giải, phân tích trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Chính sự phát triển của kinh tế, mà trước hết của lực lượng sản xuất, đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời. Thông qua cách mạng xã hội, mâu thuẫn được giải quyết, phương thức sản xuất mới được ra đời. Chính điều này đã thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp lên cao. C.Mác đã chỉ ra vị trí, vai trò của các chủ thể, các hình thức tổ chức cộng đồng người và mối quan hệ của các tổ chức, cá nhân xã hội trong sự tác động qua lại suy đến cùng tuân theo sự vận động tổng hợp của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Chứng minh cho giai cấp vô sản thấy được sứ mệnh lịch sử to lớn của mình, tự giác bước lên vũ đài chính trị. C.Mác đã loại bỏ được quan điểm duy tâm về xã hội. Nói chung, quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở phương pháp luận giúp con người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách đúng đắn và còn nguyên giá trị, không thể lỗi thời cho dù trong điều kiện của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra.

Ba là, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội.

Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển có quy luật. Những yếu tố cốt lõi quy định tiến trình phát triển của xã hội chính là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên với sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao. Nguyên nhân khách quan, nội tại dẫn tới sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Xét trong điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới thì sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội có thể là tuần tự từ thấp đến cao, có thể là sự sự bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Chính điều này đã dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng, con người không thể chủ quan, tùy tiện xóa bỏ quy luật khách quan của lịch sử, nhưng con người có thể tác động, thúc đẩy quy luật đó diễn ra nhanh hay chậm. Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội tạo thành cơ sở cho phương pháp luận khoa học trong nhận thức thực tiễn xã hội, giúp cho con người cải tạo xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Bốn là, lý luận về giá trị thặng dư.

Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, đồng thời chỉ ra nguyên nhân và cơ chế vận hành của sự bóc lột đối với công nhân, người làm thuê của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho đến nay, lý luận về giá trị thặng dư của C.Mác vẫn còn nguyên giá trị, nó giúp cho giai cấp vô sản nhận thức rõ bản chất bóc lột của giai cấp tư sản. Bên cạnh đó, lý luận về sở hữu, về xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết lập sở hữu công hữu lvề tư liệu sản xuất là những giá trị bền vững của kinh tế - chính trị Mác - Lênin. Ngày nay, sự phát triển vũ bão của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý luận về giá trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu, trở nên lỗi thời, mà ngược lại, đã và đang minh chứng cho tính đúng đắn của những lý luận đó.

Năm là, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, về những đường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản dựa trên tính quy luật của sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin là người trực tiếp vận dụng học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen để tiến hành cách mạng xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô. Như vậy, trong sự vận động tổng thể theo quy luật của xã hội loài người, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn chưa thể bị thời gian vượt qua.

Sáu là, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết mở.

Chủ nghĩa Mác - Lênin không cứng nhắc, bất biến mà đòi hỏi phải luôn được bổ sung, phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại. Toàn bộ học thuyết Mác - Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện chứng của nó, với bản chất cách mạng, khoa học, nhân đạo, chủ nghĩa Mác - Lênin sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế giới và là nền tảng, tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[3].

Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Về bản chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống mở, luôn được bổ sung, phát triển. Ngay từ năm 1887, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[4]. V.I.Lênin sau này cũng đã không ít lần nhắc lại lời Ph.Ăngghen và khẳng định lại luận điểm kinh điển ấy của chủ nghĩa Mác.

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm phạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các ông luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa…của mỗi nước. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các Đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cũng cho thấy bản chất vốn có của chủ nghĩa Mác - Lênin là sáng tạo và phát triển. Chính nhờ có sáng tạo mà chủ nghĩa Mác - Lênin được phát triển, chính phát triển lại là điều kiện cho những người mácxít vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn trang bị cho chúng ta cơ sở phương pháp luận cho nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người; cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh của con người để ngày càng thích ứng hài hòa với môi trường tự nhiên, cho cuộc đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, vì sự tiến bộ và hạnh phúc. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin còn nguyên giá trị đối với thực tiễn hiện nay. Những sự sai lầm của những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở, lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc nghiên cứu, chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin góp phần bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời giúp những người cộng sản nâng cao nhận thức của mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, biết vận dụng có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn.

Nguyễn Bá Hà

#sqct

#BảovệnềntảngtưtưởngcủaĐảng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ph.Ăngghen (1883), “Lễ An táng Các Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995.

2. Ph.Ăngghen (1887), “Gửi Pôn La - Phác - Gơ, 28 tháng Giêng 1887”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1999.

3. Hồ Chí Minh (1960), “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

4. V.I.Lênin (1914), “Bút ký triết học”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006.



[1] V.I.Lênin (1914), “Bút ký triết học”, V.I.Lênin Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 179.

[2] Ph.Ăngghen (1883), “Lễ An táng Các Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 499 - 500.

[3] Hồ Chí Minh (1960), “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 563.

[4] Ph.Ăngghen (1887), “Gửi Pôn La - Phác - Gơ, 28 tháng Giêng 1887”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1999, tr. 796.

1 nhận xét: