PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CHỦ TRƯƠNG “KHƠI DẬY KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước là chủ trương nhất quán, quan trọng được Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội, phản động đang ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ trương này. Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố niềm tin, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội về con đường, mục tiêu, động lực phát triển đất nước, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam trở thành nước phát triển.Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công
rất tốt đẹp, là dấu son quan trọng trong lịch sử vẻ vang của Đảng ta, dân tộc
ta. Đại hội XIII lần đầu tiên đề cập đến “khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”. Đây là một điểm mới, điểm nhấn quan trọng về sức mạnh nội
sinh và phương thức phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đại hội xác định một
trong những quan điểm chỉ đạo là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí
tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam…”[1].
1. Nhận diện các luận
điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ trương “khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đại hội XIII thể hiện tầm
nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta với mục tiêu đến năm
2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Tuy nhiên, các phần tử cơ hội chính trị, phản động, các thế lực thù địch
vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta. Chúng lu loa cho rằng: đó là
một “khẩu hiệu trống rỗng”, “nặng tính duy tâm, siêu hình”. Chúng lý sự rằng, “khát
vọng” là yếu tố tinh thần; trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần đề cập và
nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII (từ chủ đề Đại hội, quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu tổng quát, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược)
thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần cho sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, nên là một quan điểm duy tâm, siêu hình; đi ngược
lại lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng cũng “gào lên” cho chủ trương
đó là “phi thực tế, phản khoa
học”, là biểu hiện “chủ quan, nóng
vội, duy ý chí” của Đảng cầm quyền. Chúng còn mạnh miệng bảo rằng chủ trương đó
chỉ là “ảo vọng viển vông, hão huyền”, “không có tính khả thi”; Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ “đánh trống bỏ dùi”, không có kế hoạch và biện pháp triển khai cụ
thể, hữu hiệu…
Trong khi đó, từ đầu nhiệm
kỳ Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa
có tiền lệ. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột
Nga - Ukraine kéo dài; lạm phát thế giới tăng cao, hậu quả của đại dịch
COVID-19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; rủi ro tài chính, tiền
tệ, mất an ninh năng lượng, lương thực đang hiện hữu… Ở trong nước, nhiều vấn
đề tồn đọng kéo dài cần được giải quyết; trong khi đó, dịch bệnh, thiên tai
diễn biến phức tạp, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất kinh doanh và đời sống của
nhân dân. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch càng điên cuồng chống phá
chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của
Đảng ta. Chúng lớn tiếng cho rằng chủ trương này chỉ là cái bánh vẽ, không thể
thành hiện thực… hòng đánh lạc hướng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta;
kích thích tâm lý bi quan, mơ hồ, chán chường của một bộ phận người dân nhẹ dạ
cả tin; kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội và uy tín của đất nước ta trên
trường quốc tế.
2. Luận cứ phản bác các
luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước những luận điệu xuyên
tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc”, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác cao và
nhận rõ đó là những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, hòng chống phá vai
trò lãnh đạo của Đảng, làm nhụt chí quyết tâm của toàn dân tộc trên con đường
phát triển giàu mạnh, phồn vinh. Chúng ta có thể khẳng định: chủ trương “khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta là đúng
đắn, khoa học, khả thi với những luận cứ xác đáng, thuyết phục.
Thứ nhất, khát vọng phát triển đất
nước có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt.
Các nhà kinh điển mác-xít
đã khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức
song ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động, sáng tạo
nên tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. C. Mác chỉ rõ: “Vũ khí của sự phê phán cố
nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có
thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[2]. V.I.
Lênin khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách
quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”[3].
Đặc biệt, ý thức, tư tưởng hay tinh thần tiến bộ, khoa học, cách mạng một khi
được giáo dục, khơi dậy và phát huy đúng cách ở mỗi cá nhân sẽ trở thành sức
mạnh to lớn trong cải tạo xã hội. Để hiện thực hóa sức mạnh ấy, đòi hỏi phải tiến
hành công tác tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ và tổ chức cho quần chúng tham
gia các phong trào cách mạng, các hoạt động xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý... Bổn phận của chúng ta
là... phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh
thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước,
công việc kháng chiến”[4].
Thực tiễn lịch sử xã hội
loài người chứng minh, sự hình thành, phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc phụ
thuộc trước hết vào khát vọng sống, tồn tại và vươn lên của cộng đồng dân tộc
đó. Trong lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, sức mạnh của tinh thần, của ý
chí, nhất là ý chí của cả một dân tộc giữ vai trò hết sức quan trọng, thậm chí
là quyết định. Khát vọng phát triển của
một dân tộc là nguồn năng lượng nội sinh to lớn và sức mạnh vô địch; là động
lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai. Sự
phát triển “kỳ diệu” của các quốc gia hùng mạnh đều bắt nguồn chính từ những
khát vọng vươn lên hùng cường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…
Đối với Việt Nam, khát vọng phát triển đất nước thật
sự là sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Thời trung đại, Việt Nam đánh thắng tất
cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc
lập dân tộc, bắt nguồn từ khát vọng về độc lập, chủ quyền quốc gia. Trong
thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta
đã đập tan ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến; đánh thắng các thế lực
xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất
đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công oanh liệt đó
khởi nguồn từ khát vọng mãnh liệt của dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái
quát thành chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[5]. Hiện
nay, khát vọng phát triển giàu mạnh, hùng cường là một động lực thúc đẩy dân
tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo, lạc hậu, vượt qua bẫy thu nhập trung
bình, nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Rõ
ràng, Đảng ta không
tuyệt đối hóa vai trò động lực của khát vọng phát triển đất nước mà xác định
đây là một trong những động lực cho đổi mới, phát triển; là động lực thúc đẩy
chứ không thể thay thế vai trò cơ sở, nền tảng quyết định của yếu tố kinh tế,
vật chất, kỹ thuật.
Thứ hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trên cơ sở cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín đất nước.
Khát
vọng phát triển đất nước bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín của đất nước sau 35 năm đổi mới. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là
động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới
toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[6].
Trong nhiệm kỳ Đại hội
XII, đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện. Kinh tế vĩ mô ổn
định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, chất lượng tăng trưởng được nâng lên,
các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm. Quy mô nền kinh tế và thu nhập
bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân
đầu người đạt 2.779 USD). Năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 -
2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 - 2020[7]. Lĩnh
vực văn hóa, xã hội của đất nước đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản
được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đến năm 2020, Việt Nam
đã đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới trong khi thu nhập bình
quân đầu người còn ở hạng ngoài 100[8].
Một trong những dấu ấn
nổi bật nhất của Việt Nam trong nhiệm kỳ 5 năm (2016-2020) là thực hiện thắng
lợi “mục tiêu kép”: vừa tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh; vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam được
truyền thông quốc tế ca ngợi là “mảnh đất tiềm năng” (Forbes), “bình minh đang
lên” (báo Nga), “ngôi sao sáng” (Asia Times), “phép màu châu Á” (New York
Times), “con hổ châu Á” (Nikkei Asia)...
Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cũng là một thành công nổi bật trong nhiệm kỳ Đại hội XII. Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện, có trọng tâm, trọng
điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Công tác phòng chống tham
nhũng được tiến hành quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng; tuyệt đại đa
số ý kiến người dân (93%) tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng[9].
Sau 35 năm đổi mới, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát
triển, chính trị - xã hội ổn định; văn hóa - xã hội có bước phát triển, quốc
phòng, an ninh được tăng cường. Nếu năm 1988, thu nhập bình quân đầu người của
nước ta mới chỉ đạt 86 USD/người/năm thì đến năm 2020 Việt Nam đã trở thành một
quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân gần
2.800 USD/người. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ
nghĩa được giữ vững.
Thứ ba, chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”
là “ý Đảng” hợp “lòng dân”.
Quá trình chuẩn bị các
văn kiện trình Đại hội XIII, các Tiểu ban đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
ở Trung ương và địa phương tổ chức gần 60 hội nghị, hội thảo, toạ đàm; thành
lập 50 đoàn đi khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh
đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia; tổ chức tọa đàm
với một số tổ chức quốc tế, 2 đoàn đi khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm nước
ngoài. Các Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để thảo luận, thông qua Đề cương
và các dự thảo văn kiện. Bộ Chính trị đã họp nhiều lần để cho ý kiến hoàn thiện
Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương tại
các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14 và 15. Các dự thảo Báo cáo đã được
chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần và được gửi xin ý kiến rộng rãi của các đại biểu
Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều tổ chức, cơ quan,
đoàn thể... Bộ Chính trị đã quyết định cho công bố công khai toàn văn các dự
thảo Báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để lắng nghe ý kiến rộng
rãi của nhân dân. Đã có hàng triệu lượt ý kiến đóng góp vào dự thảo các văn
kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương; các ý kiến đóng góp được tổng hợp lại
thành 1.410 trang.
Văn kiện được đánh giá có
quá trình chuẩn bị “rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng,
từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp.
Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn, giữa kiên định và đổi mới,
giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy
dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý
Đảng, lòng Dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc”[10].
Các ý kiến, đề xuất tâm huyết, trách nhiệm, kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng
tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, mong muốn đất nước ta ngày càng
phát triển phồn vinh; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; dân tộc ta ngày
càng cường thịnh, trường tồn. Tất cả những điều đó chứng minh tính khoa học,
khách quan của những đánh giá, các mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện Đại hội
XIII.
Thứ tư, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước được thể chế
hoá thành những mục tiêu, tầm nhìn “trăm năm” và những kế hoạch, chương trình
cụ thể.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng chỉ rõ: “Nói Đại hội XIII không
phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021 - 2026) mà phải có tầm nhìn chiến
lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng tới tương lai”[11]. Khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được Đảng, Nhà nước cụ thể
hoá, thể chế hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể,
với lộ trình và bước đi phù hợp với điều kiện thực tế. Đây là một trong những
phương cách khả thi nhất để góp phần hiện thực hóa khát vọng này.
Văn kiện Đại hội XIII đã
xác định “những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập
niên sắp tới: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến
năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao”[12].
Giai đoạn hiện nay, Việt
Nam xác định chỉ tiêu: Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến
năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt
khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%.
Về xã hội, Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,74; tuổi thọ bình
quân đạt 75 tuổi; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 -
40%. Về môi trường, tỷ lệ che phủ rừng ở mức 42%; 100% các cơ sở sản xuất kinh
doanh đạt quy chuẩn về môi trường[13].
Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng nhấn mạnh, cần tập trung vào các đột phá cụ thể sau đây: (1) Hoàn
thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác
lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt. (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ, hiện đại; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc
gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng
thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát
triển kinh tế số, xã hội số.
Đưa đất nước phát triển
phồn vinh, hạnh phúc là cả một quá trình cải biến toàn diện và sâu sắc, diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, để hoàn thành thắng lợi
sự nghiệp vĩ đại này, cần huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại với những kế
hoạch, biện pháp cụ thể của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành trong từng
giai đoạn.
Thứ năm, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước bước đầu được
minh chứng với kết quả sinh động của đất nước từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến
nay.
Hơn hai năm đầu nhiệm kỳ
Đại hội XIII của Đảng, trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có những
diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhất là phải chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi đại dịch COVID-19, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu, hoàn
thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, đạt được nhiều kết quả
quan trọng, khá toàn diện.
Việt Nam đã nỗ lực duy
trì, phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều điểm sáng tích cực. Năm
2021, tăng trưởng kinh tế đạt 2,58%; thu ngân sách nhà nước tăng 16,4%; tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD (đưa Việt Nam
trở thành 1 trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại). Tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tương đương 34,4% GDP, tăng 1,2% so với năm
2020. Nông nghiệp tiếp tục giữ được vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm
an ninh lương thực; xuất khẩu nông sản đạt 48,6 tỷ USD[14].
Năm 2022, tăng trưởng GDP
đạt 8,02%, mức cao nhất trong hơn
10 năm qua; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu
ngân sách nhà nước vượt 26,4% dự toán, tăng 13,8% so với năm 2021. Tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội
đạt trên 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 11,2%. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định;
xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục trên 53,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
gạo 7,12 triệu tấn. Sản
xuất công nghiệp tăng 7,69%. Khu vực dịch vụ phục hồi mạnh mẽ, tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 19,8%[15].
Báo cáo triển vọng kinh
tế năm 2023 của Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) đưa ra 2 kịch bản: Ở kịch
bản 1, tăng trưởng kinh tế năm 2023 có thể đạt mức 6,47%; xuất khẩu tăng
7,21% và thặng dư thương mại đạt 5,64 tỷ USD; lạm phát sẽ ở mức 4,08%. Ở kịch
bản 2, CIEM dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023 sẽ tích cực hơn, lên mức
6,83%; xuất khẩu tăng 8,43% và thặng dư thương mại đạt 8,15 tỷ USD; lạm phát sẽ
được kiểm soát ở mức 3,69%.
Một
tín hiệu lạc quan nữa là trong khó khăn, chúng ta vẫn tiếp tục quan tâm phát
triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Việt Nam đã ứng phó, kiềm chế, kiểm soát
được dịch bệnh, từng bước chuyển sang trạng thái “Thích ứng an toàn, linh hoạt,
kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”. Các cơ chế, chính sách của Nhà nước nhằm hỗ
trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh đã được triển khai đồng
bộ, góp phần tích cực bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Quốc
phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường; chủ quyền quốc gia, môi
trường hòa bình, ổn định tiếp tục được giữ vững, tạo thuận lợi cho phát triển
đất nước. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, triển
khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước
ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; đóng góp tích cực, hiệu quả, có
trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế
giới.
3.
Những giải pháp khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
trong thời gian tới
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng yêu cầu: “Luôn phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[16]. Để
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của các tầng lớp nhân dân trong thời
gian tới, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp; trong đó, cần thực hiện tốt các giải
pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, truyền cảm hứng về
khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Tiếp
tục đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tăng cường tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên, nhân dân
nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đổi mới học
tập lý luận chính trị, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trước các vấn đề
thời sự chính trị của đất nước. Cần tăng cường tuyên truyền, giác ngộ, truyền
cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân,
với sự sinh động, phong phú, thiết thực và hiệu quả bằng các hình thức, phương
pháp khác nhau. “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý
chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng
phát triển đất nước của toàn dân tộc[17].
Làm cho khát vọng phát triển đất nước trở thành niềm vinh dự, tự hào, phương
châm, lẽ sống và hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người dân Việt Nam,
nhất là thanh niên. “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo
đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất
nước, với xã hội”[18].
Đặc
biệt, dưới góc độ kinh tế,
khát vọng phát triển đất nước được thể hiện chủ yếu ở tinh thần vươn lên, không
cam chịu đói nghèo, lạc hậu, chậm phát triển. Mặc dù công cuộc đổi mới đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song đất nước ta
vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Vì vậy, khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước hiện nay chính là khơi dậy ý thức lao động hăng say, sáng
tạo, nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân Việt Nam;
nhất là sự cố gắng phấn đấu của thanh niên nước nhà trong học tập, lao động
sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp.
Hai là, xây dựng các
cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân
Việt Nam.
Đảng, Nhà nước cần chủ
động tạo lập các yếu tố, điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để khơi dậy
và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước ở mỗi con người Việt Nam. Phải
“xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của
mọi người dân Việt Nam”[19].
Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chính sách kinh tế -
xã hội phù hợp, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các
tầng lớp nhân dân.
Cần phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, coi trọng “ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật
tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của
nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[20].
Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của
nhân dân trong tham gia vào các công việc chung của đất nước. Thực hiện triệt
để, thực chất phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo lập và phát
huy sức mạnh đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Thực hiện những cải cách
có tính đột phá về thể chế, cơ chế, chính sách, tạo được hệ thống pháp luật
đồng bộ, chặt chẽ, minh bạch nhằm gắn kết chặt chẽ với tầm nhìn chiến lược phát
triển dài hạn. Đảm bảo kết hợp giữa quản lý, kiểm soát bằng các quyết định hành
chính với quản trị hiện đại, phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước; xây dựng, kiến tạo và thực thi có hiệu quả các cơ chế, chính
sách chuyển đổi sang mô hình phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở đổi mới
sáng tạo và ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến nhằm thúc đẩy khởi nghiệp
gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại đầu
tư; nâng cao năng lực cạnh tranh; nâng cao hiệu quả sử dụng, quản lý đầu tư
công.
Tập trung kiến tạo môi
trường, thiết chế, chính sách thuận lợi, minh bạch bảo đảm phát triển văn hóa,
con người, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, nhằm đảm bảo giải quyết tốt các
vấn đề an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ổn định an ninh chính trị và bảo vệ
Tổ quốc. Trọng tâm là rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách an sinh xã
hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, hệ thống hỗ trợ tích cực, như: chính sách
việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, từng bước tăng cường khả năng tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và vùng đặc thù; chính sách xóa
nghèo bền vững; giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo
vệ môi trường.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống
chính trị trong khơi dậy khát vọng phát triển đất nước.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi, nhất là thực hiện khát vọng, mục
tiêu, tầm nhìn phát triển đất nước. Do vậy, phải “xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn
diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[21]; “giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”[22];
phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong các phong trào
hành động cách mạng, phát triển kinh tế - xã hội, vươn lên làm giàu chính đáng.
Đảng ta cần nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn để hoạch định đường lối đúng đắn. Tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng bảo đảm tính khoa học, thiết
thực, kịp thời, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp
chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, dám nghĩ, dám làm,
dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm, có khát vọng đổi mới và phát triển.
Xây dựng, hoàn thiện “Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân
dân do Đảng lãnh đạo”[23], bảo
đảm đồng bộ cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính quyền Trung ương
và chính quyền địa phương; nêu cao sứ mệnh phục vụ nhân dân; làm rõ mối quan hệ
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tăng
cường kiểm soát quyền lực, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân. Các cơ quan nhà nước cần ban hành hệ thống pháp luật, chính
sách đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân, kiều bào ta ở nước
ngoài đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Tích cực đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, thực chất, hiệu quả nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Đổi mới nội dung, phương thức
tuyên truyền, vận động nhân dân theo hướng thiết thực; hướng về cơ sở, chú ý
những nhân tố mới, những cách làm sáng tạo. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp xúc
cử tri, giám sát, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của nhân dân. Đấu tranh với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, cửa quyền, hách dịch,
nhũng nhiễu đối với nhân dân.
*
Tóm lại, “khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là chủ trương đúng đắn, khoa học
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết
phục, sống động để phản bác các luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực
thù địch. Trong hành trình vĩ đại của dân tộc tiến lên giàu mạnh, phồn vinh,
hạnh phúc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phấn đấu không mệt mỏi, bền
gan vững chí, vượt qua mọi khó khăn thử thách, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục
tiêu, tầm nhìn phát triển mà Đại hội XIII đã hoạch định như di nguyện của Bác
Hồ và ước vọng của toàn dân tộc./.
Khúc Văn Hưởng
#SQCT
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khoá XII
“Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”,
Hà Nội, ngày 15/5/2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII
“Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ”, Hà Nội, ngày 30/10/2016.
4. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
5. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
6. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Kết luận 01-KL/TW của Bộ Chính
trị khoá XIII “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội, ngày 18/5/2021.
7. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Kết luận Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng
viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, Hà Nội, ngày 25/10/2021.
8. Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
9.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
10.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
11.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
12.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
13. Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
14. Tổng Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2021,
Hà Nội, 2021.
15. Tổng Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và
năm 2022, Hà Nội, 2022.
16. Tổng Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I năm
2023, Hà Nội, 2023.
17. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Thông tin Báo cáo viên, Số 6/2021.
18. Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong
sạch, vững mạnh”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023.
[1]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 110.
[2] C. Mác
và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr. 580.
[3] V.I.
Lênin, Toàn tập, Tập 29, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.
228.
[4] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011,
tr. 38-39
[5] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị
quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 131.
[6] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
tr. 104.
[7] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
tr. 60-61.
[8] Hà
Anh, Tập trung cho hạ tầng, nhân lực và
các yếu tố xã hội nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, ngày 21/01/2021.
[9]
Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 116.
[10] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 19.
[11] Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10
khóa XII của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, ngày 16/5/2019.
[12] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 36.
[13] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 218-220.
[14] Tổng
Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội năm 2021, Hà Nội, 2021.
[15] Tổng
Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội quý IV và năm 2022, Hà Nội, 2022.
[16] Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Chính phủ với địa phương, Báo điện tử Chính
phủ, ngày 28/12/2020.
[17] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 47.
[18] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 168.
[19] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 47.
[20] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 173.
[21] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 180.
[22] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.612.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 174.
Chúng ta phải nâng cao cảnh giác và đấu tranh chống lại âm mưu của các thế lực thù địch, phản động
Trả lờiXóa