PHÒNG, CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN - TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG NGANG TẦM NHIỆM VỤ
Chủ nghĩa cá nhân với nhiều biểu hiện khác nhau nhưng đều mang lại những hệ luỵ khôn lường, gây phương hại cho Đảng, cho quốc gia, dân tộc. Đó là thứ “giặc nội xâm”, khởi nguồn của mọi sự suy thoái cần nhận diện đúng và kiên quyết đấu tranh. Thấu triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời, tiếp nối những thành tựu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, trong điều kiện hiện nay, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên trì, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân là yếu tố quan trọng, cốt lõi để xây dựng Đảng thực sự vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn.
1. Chủ nghĩa cá nhân - thứ “giặc
nội xâm”, nguồn gốc của suy thoái
Lời cổ nhân từng khẳng định “kẻ thù lớn nhất
của đời người là chính mình”. Vấn đề quan trọng là làm thế nào khắc phục được những
khuyết điểm của “con người bản năng” để không ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể,
của xã hội và tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân. Như vậy, có thể thấy chủ
nghĩa cá nhân không tự nhiên sinh ra và tồn tại ở mọi xã hội, nó chỉ nảy sinh
và phát triển ở nơi khi giải quyết mối quan hệ về lợi ích thì luôn đặt quyền
lợi của cá nhân lên trên hết, trước hết, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Khi
có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô,
lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng”[1]. Chính
vì vậy, Người khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích
riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình
béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như: lười
biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, v.v.. Nó là kẻ
thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”[2].
Có thể khẳng định,
về bản chất, chủ nghĩa cá nhân là lối sống tuyệt đối hóa lợi ích, sự tự do cá
nhân, hướng tới thỏa mãn những suy nghĩ, nhu cầu, mục đích, hành vi vụ lợi,
hưởng lạc theo chủ nghĩa vị kỷ. Hệ lụy của chủ nghĩa cá nhân mang lại là vô
cùng nguy hại, bởi đó là nguồn gốc sâu xa dẫn tới suy thoái, biến chất, làm mất
uy tín, giảm hiệu quả công việc của mọi cá nhân, tập thể, cũng như năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bởi vì: “Do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn
kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp
hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích
của cách mạng, của nhân dân”[3] và
cũng do cá nhân chủ nghĩa mà “Ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa,
lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự
đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa
rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh
thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”[4].
Chủ nghĩa cá nhân
được biểu hiện đa dạng, luôn biến hóa tinh vi. Ngay trong tác phẩm “Nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (03/02/1969), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra 10 loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân cần nhận diện và
phòng chống, đó là: bệnh quan liêu; bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo;
bệnh hiếu danh; bệnh hữu danh vô thực; bệnh cận thị; bệnh tị nạnh; bệnh xu
nịnh, a dua và bệnh kéo bè, kéo cánh. Người coi chủ nghĩa cá nhân, quan liêu,
tham nhũng, lãnh phí như là “giặc nội xâm” và cho rằng: “Địch bên ngoài không
đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”[5].
Đó là một trong những nguy cơ hiển hiện đe dọa sự tồn vong của Đảng. Chừng nào
còn chủ nghĩa cá nhân, nó sẽ là trở lực lớn ngăn cản cán bộ, đảng viên phấn đấu
vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc, do đó: “Chủ nghĩa cá nhân là một
kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”[6].
Ngay từ khi ra đời
và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã ngày càng nhận
rõ và kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đặc biệt, trong điều
kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội hiện nay. Đảng ta luôn
coi trọng và xác định lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho sự phát triển.
Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, coi lợi ích cá nhân là động lực
duy nhất như một số quan điểm sai trái, thù địch cổ súy hiện nay thì đó là tư
tưởng cực đoan, dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Thực tế này đã được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Một bộ phận cán bộ,
đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””[7]. Đại
hội cũng khẳng định, đây là “một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ ta”. Khuyết điểm này có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân sâu xa,
chủ yếu vẫn là do “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”[8]. Phát
biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng giai đoạn 2012 - 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh: “Tham
nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những “kẻ thù hung ác””, và chỉ rõ nguyên nhân
dẫn đến tình trạng tham nhũng, tiêu cực là do “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp
cao, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thậm chí suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.
Như vậy, chủ nghĩa
cá nhân thực sự là “giặc nội xâm”, khởi nguồn của mọi sự suy thoái. Một khi chủ
nghĩa cá nhân còn có điều kiện để tồn tại và phát triển sẽ luôn là mối nguy hại
vô cùng to lớn đe dọa đến sự phát triển trường tồn của Đảng, dân tộc, sự thịnh
vượng của đất nước, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối
với chế độ.
2. Phòng, chống chủ nghĩa cá nhân
- tầm nhìn chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đến sự phát
triển vững mạnh của Đảng. Ngay trong tác phẩm “Đường cách mệnh” năm 1927, Người
đã căn dặn người cách mệnh phải: “Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi
mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên
cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải
làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất”[9]. Khi
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra trực tiếp, Người đề ra yêu cầu kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân và nêu lên những đòi hỏi ngày càng cao. Người luôn nhắc
nhở: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và
ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[10]. Trong
bài “Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội” năm 1961, Người dạy: “Giữ
gìn sự thống nhất của Đảng như con ngươi của mắt. Phải hết lòng tôn trọng tập
thể, phát huy dân chủ nội bộ; tuyệt đối không được độc đoán cá nhân, tự đặt mình
cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật. Càng có công lao, càng
phải khiêm tốn. Chớ vì có ít nhiều công lao mà sinh bệnh công thần, kèn cựa,
địa vị”[11]. Trước
khi đi xa, Người cũng căn dặn toàn Đảng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Những lời cảnh tỉnh
đó đã khẳng định giá trị vĩnh hằng và thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thực hiện giáo huấn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thông
qua các kỳ Đại hội, Hội nghị Trung ương, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán
quan điểm về nguy cơ, tác hại của chủ nghĩa cá nhân và sự bành trướng của nó. Tại
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VI), Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên khi bước vào công cuộc đổi
mới, cảnh giác, đề phòng những nguy cơ rất dễ xảy ra đối với một Đảng cầm quyền,
đó là bệnh quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với
nhân dân; sinh lòng thèm khát đồng tiền, sẵn sàng “chiếm công vi tư”, đục khoét
của cải của nhân dân, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; sống buông thả, sa đọa,
móc ngoặc và tiếp tay cho bọn làm ăn bất chính ngoài xã hội; cơ hội chủ nghĩa,
sống vô nguyên tắc, chỉ biết luồn lọt, nịnh bợ để có danh lợi; không tự phê
bình và phê bình trên tình đồng chí, hoặc là xuê xoa, nể nang, hoặc là lợi dụng
để đả kích nhau, tạo ra phe phái gây mất đoàn kết nghiêm trọng.
Tại Hội nghị toàn
quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng, nhận diện về chủ nghĩa cá nhân có sự
phát triển. Hội nghị khẳng định tham nhũng, quan liêu trở thành một trong bốn
nguy cơ đối với chế độ mà Đảng, Nhân dân ta đã lựa chọn và là biểu hiện tập
trung của chủ nghĩa cá nhân, suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân với
rất nhiêu biểu hiện, đặt Đảng trước những thách thức lớn hơn. Đại hội nhận
định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt
lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về
đạo đức và lối sống”[12]. Đại
hội cũng khẳng định, bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ địa phương, kèn cựa, địa
vị rất nặng. Số thoái hoá về chính trị tuy ít, nhưng hoạt động của họ gây hậu
quả rất xấu.
Bước sang những năm
đầu của thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, chủ nghĩa cá
nhân với biểu hiện tập trung của nó là tham nhũng, tiêu cực ngày càng diễn biến
phức tạp, tinh vi hơn. Liên tục các kỳ Đại hội IX, X của Đảng đều đề cập đến
chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện chính của nó, đồng thời chủ trương mỗi cấp
uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm và thực hiện Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng
cơ hội thực dụng.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, một lần
nữa vấn đề phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí được đề cao. Đặc
biệt, tại Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI), Đảng đã ban hành Nghị quyết “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, khẳng định việc tăng cường giữ nghiêm
kỷ luật, kỷ cương trong toàn Đảng, nhất là “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” là đòi
hỏi tất yếu khách quan, cấp bách, bảo đảm cho toàn Đảng luôn là một khối thống
nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo ra sức mạnh để đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi.
Tại
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), Đảng đã ban hành Nghị quyết về “Tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”,
nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp
hành Trung ương (khóa XII) về xây dựng Đảng. Nghị quyết vừa cụ thể hóa thực hiện
10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng do Đại hội XII đề ra, vừa tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) trong điều kiện mới. Điều đó càng khẳng định
quyết tâm chính trị rất cao, sự nỗ lực rất lớn và tư tưởng nhất quán của Đảng về
tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống suy thoái,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đồng thời, thể hiện tầm tư duy và thái độ kiên
quyết, kiên trì thực hiện trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của Đảng.
Tiếp tục khẳng định tầm tư duy chiến lược của Đảng, theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tại Hội nghị Trung
ương 4 (khóa XIII), trong bài phát biểu bế mạc, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã chỉ rõ: “Điểm mới của lần này là Trung ương đã mở rộng phạm vi,
không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống
chính trị đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”[13].
Như vậy, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã gắn công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng với xây dựng hệ thống chính trị. Đây là một yêu cầu khách quan, bởi lẽ Đảng
Cộng sản Việt Nam tuy giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội
nhưng Đảng không đứng ngoài hệ thống chính trị, không phải là nhân tố độc lập
hoàn toàn với hệ thống chính trị.
Hiện
nay, “Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu,
có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Vì vậy, đòi hỏi
phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới,
gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ
có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta”[14]. Chính
vì lẽ đó, tại Đại hội XIII, nhất là Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã xác định
gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
là điều kiện, là cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà nước, là vấn đề liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ
xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhân dân ta đang xây dựng.
Cùng với đó, cần nhận thức đúng đắn và phân biệt chính
xác rằng, chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là coi thường cá nhân, không
phải là “giày xéo” lên lợi ích chính đáng của cá nhân như một số quan điểm sai
trái, thù địch rêu rao. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của
tập thể, của quốc gia dân tộc thì không phải là xấu, không bị lên án. Chúng ta đều biết, chủ nghĩa cá
nhân là sản phẩm của chế độ xã hội cũ mà ở Việt Nam đó là chế độ phong kiến và
chế độ thực dân. Chế độ đó dựa trên nền tảng là sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, luôn đề cao cái tôi, vai trò cá nhân. Chế độ đó hướng tới chỉ lo vun vén cho
lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ và thực thi chính sách bóc lột tàn bạo
về kinh tế, không có dân chủ, thậm chí độc đoán, chuyên quyền về chính trị. Vì
vậy, nó nuôi dưỡng và phát triển lợi ích của mỗi cá nhân và là môi trường để chủ
nghĩa cá nhân phát triển. Ảnh hưởng đó của chế độ cũ là rất nặng nề và khắc phục
nó là rất khó khăn. Thực tế đó cũng cắt nghĩa vì sao bước vào xây dựng xã hội mới
- xã hội chủ nghĩa, việc đấu tranh để thoát khỏi những ảnh hưởng xấu, nhất là
chủ nghĩa cá nhân lại vô cùng khó khăn và lâu dài. Điều này càng minh chững rõ
nét cho tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn để Đảng thực sự ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.
3. Một số giải pháp chủ yếu phòng,
chống chủ nghĩa cá nhân
Nhận
thức sâu sắc về vị trí, vai trò, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân
trong cán bộ, đảng viên hiện nay là việc làm cần thiết, cấp bách, thường xuyên
và là lương tâm, trách nhiệm của những người cộng sản chân chính. Do đó, cần quán
triệt và thực hiện nhất quán một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, thường
xuyên giáo dục, rèn luyện nâng cao nhận thức, trình độ, ý thức tổ chức kỷ luật
cho cán bộ, đảng viên. Chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn, giác ngộ chính trị cao,
đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn, mọi cán bộ, đảng viên mới tự giác,
gương mẫu chấp hành kỷ luật, kỷ cương. Do đó, các cấp ủy đảng, người đứng đầu
phải thường xuyên kết hợp giáo dục, tổ chức học tập chính trị với đưa cán bộ, đảng
viên vào rèn luyện, hoạt động trong thực tiễn, kịp thời phát hiện, chỉnh đốn, đấu
tranh ngăn ngừa những biểu hiện vô ý thức tổ chức kỷ luật. Bên cạnh đó, phải bằng
nhiều hình thức, phương pháp giáo dục, rèn luyện phong phú, linh hoạt, sáng tạo,
phù hợp, chú trọng làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc về tính chất
nguy hiểm, tác hại của chủ nghĩa cá nhân đối với cách mạng, đối với cơ quan,
đơn vị và xã hội. Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên tự học tập, tu
dưỡng, rèn luyện không ngừng nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, lối
sống, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực, phương pháp công tác để hoàn thành mọi nhiệm
vụ được giao.
Hai là, thường
xuyên quản lý toàn diện, chặt chẽ cán bộ, đảng viên về mọi mặt. Quản lý khoa học,
chặt chẽ, hiệu quả cả về hồ sơ, số lượng, chất lượng cán bộ, đảng viên, kết quả
thực hiện nhiệm vụ; đồng thời, thường xuyên theo dõi, phát hiện, ngăn chặn kịp
thời, hiệu quả những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Chú
trọng những cán bộ, đảng viên giữ cương vị chủ trì, quản lý các cấp; những cán
bộ, đảng viên phụ trách các vấn đề nhạy cảm, dễ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực,
dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa quản lý, giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên với tổ chức kiểm tra, giám sát, nhất là những trường
hợp có dấu hiệu vi phạm kỷ luật.
Ba là, giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng, đề cao tự phê bình và phê bình. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tối cao cần
được quán triệt và duy trì thực sự, thực chất, tránh hình thức, chiếu lệ. Bởi lẽ
trên thực tế, những hạn chế, khuyết điểm đã được Đảng ta chỉ rõ đều xuất phát từ
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, dân chủ hình thức. Do vậy, nguyên tắc tập
trung dân chủ chính là chìa khóa đảm bảo cho tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh, mọi cán bộ, đảng viên thực sự dân chủ, có điều kiện thể hiện tâm huyết, cống
hiến cho cơ quan, tổ chức, cho Đảng, cho đất nước và Nhân dân. Bên cạnh đó, sinh
hoạt là hoạt động thường xuyên và chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Sinh hoạt đảng được duy trì thành nền nếp và có chất lượng là môi trường tốt để
giáo dục, quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên về mọi mặt. Đồng thời, phát huy dân
chủ thực sự, đề cao tự phê bình và phê bình sẽ tạo nên sự thống nhất cả về nhận
thức và hành động trong chấp hành kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước; giúp cán bộ,
đảng viên phát huy ưu điểm, tiếp thu, sửa chữa khuyết điểm để không ngừng trưởng
thành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Song, đòi hỏi phải có phương pháp đúng đắn,
bước đi thích hợp, thận trọng, kiên trì, không ngại khó, ngại khổ, ngại va
chạm; có cơ chế “kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong Đảng”; xử lý nghiêm, đúng
người, đúng tội, “đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ”.
Bốn là, phát
huy vài trò, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng,
xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức
đảng cần chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc, xác định rõ
quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân. Thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc cấp ủy cấp trên kiểm tra, giám sát cấp ủy cấp dưới, kiểm tra chéo, kiểm tra
định kỳ và không định kỳ. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc chấp
hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt, hoạt động của Đảng và
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Kiểm tra, giám sát tổ chức đảng phải
gắn với kiểm tra, giám sát cấp ủy viên, cán bộ chủ trì. Quá trình kiểm tra, giám
sát phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi
phạm về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống và kiên quyết đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tư cách đảng viên, thực hiện hiệu quả, hài hòa giữa “xây”
và “chống”. Cùng với đó, cần tiếp tục củng cố và xây dựng môi trường văn hóa
lành lạnh, phong phú, đa dạng mà ở đó thang giá trị chân - thiện - mỹ luôn được
cổ vũ, ca ngợi, ủng hộ, còn cái ác, cái xấu, cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ,... bị
lên án, đấu tranh và đẩy lùi.
Năm là, nêu cao tính tiền phong, gương
mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì, người đứng đầu các cấp. Vấn đề
này được Đảng ta chỉ rõ, xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai
trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác
phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp,
người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ chủ trì, người đứng đầu phải nhận thức và xác định đấu tranh phòng, chống
chủ nghĩa cá nhân là lương tâm và trách nhiệm của mình trước Đảng, Tổ quốc và Nhân
dân. Do đó, phải luôn gương mẫu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong
mọi hành động. Thực hiện nói đi đôi với làm, tư tưởng gắn với hành động, tác
phong, chuẩn mực từ lời nói đến việc làm, cử chỉ, thái độ, hành vi ứng xử; “tự soi”, “tự sửa” thường xuyên, liên tục suốt đời,
phấn đấu thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của Nhân dân.
Chu Đức Thành
#SQCT
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập
55, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015.
2. Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
4. Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
6. Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
7. Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
8. Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
9. Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[1] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 361.
[2] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 90.
[3] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 547.
[4] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 547.
[5] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 278.
[6] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 611.
[7] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, tr. 92.
[8] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, tr. 95.
[9] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 280.
[10] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 672.
[11] Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 67.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập
55, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 414.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.134.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.93.
Chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh rất nguy hiểm cần phải điều trị triệt để
Trả lờiXóa