QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ “THANH ĐẢNG” VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
V.I. Lênin (1870-1924) là lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà tư tưởng, lý luận chính trị kiệt xuất, người trực tiếp góp phần đưa chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý luận trở thành hiện thực. Trong di sản tư tưởng lý luận của Người về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân có rất nhiều nội dung, trong đó có nhiều tư tưởng, luận điểm khoa học về vấn đề “thanh đảng”. Cùng với tư tưởng của Người, các hoạt động thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành “thanh đảng” có ý nghĩa sống còn đối với Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga đương thời cũng như có giá trị hiện thực sâu sắc đối với công tác xây dựng và sàng lọc đội ngũ đảng viên của các đảng cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.
V.I. Lênin trong cuộc đời hoạt động của mình không
có những tác phẩm chuyên luận, đồ sộ viết về vấn đề thanh đảng, những tư tưởng của
Người về vấn đề này được đề cập tới trong các bài nói chuyện, bài viết đăng
trên các báo, tạp chí, tiêu biểu nhất là bài báo “Về vấn đề thanh đảng” (1921). Tiếp đến, tư tưởng về thanh đảng của
Người được trình bày trong một vài tác phẩm khác như: “Làm gì” (1902), “Một bước
tiến, hai bước lùi” (1904), “Hai sách
lược của Đảng Dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ” (1905), “Thà ít mà tốt” (1923),…
1. Quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề thanh đảng
Vì sao phải thanh đảng?
Sở dĩ V.I. Lênin đặt ra vấn đề thanh
đảng một cách kiên quyết và dứt khoát chỉ vài năm sau khi Đảng Cộng sản Nga trở
thành đảng cầm quyền có cơ sở hiện thực bức thiết. Từ năm 1912, Đảng Công nhân
Dân chủ xã hội Nga tách thành hai Đảng: Bôn-sê-vích, Men-sê-vích và đã xuất
hiện những nhận thức tư tưởng khác nhau, thành phần xuất thân của đảng viên
cũng khá phức tạp. Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, một bộ phận những người Men-sê-vích
xin ra nhập Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích. Từ đây, trong Đảng liên tiếp nổ ra cuộc
đấu tranh gay gắt giữa những người Bôn-sê-vích (cũ) và những người Men-sê-vích
xung quanh các vấn đề như: Hoà ước B-rét-li-tốp, chính sách thời chiến, chính
sách kinh tế mới (NEP) của V.I. Lênin, quan niệm về công đoàn về nhà nước, vấn
đề chuyên chính vô sản, điều kiện và tiêu chuẩn kết nạp đảng,… Trong khi ấy,
Đảng Cộng sản trở thành lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, một bộ phận cán
bộ, đảng viên đã thực sự “có chức”, “có
quyền” và đã xuất hiện những tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng
làm giảm uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) và nội chiến (1915 -
1921) làm nước Nga chịu hậu quả thiệt
hại nặng nề về mọi mặt, nhất là các vấn đề xã hội, giai cấp. Nhiều công nhân ưu
tú phải ra mặt trận hoặc kiếm sống tự do; ngược lại, nhiều phần tử xa lạ, có
thành phần xuất thân phức tạp từ đủ mọi tầng lớp dân cư đã vào làm việc trong
các xí nghiệp, hầm mỏ, rồi từ đây nhiều đối tượng đã chui vào Đảng làm cho chất
lượng đảng viên có nhiều hạn chế.
Sau Cách mạng Tháng Mười, công
tác phát triển đảng viên có nhiều thuận lợi, số lượng đảng viên tăng nhanh, một mặt góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng; mặt khác,
sự gia tăng quá nhanh và chạy theo số lượng đơn thuần của không ít tổ chức cơ
sở đảng đã dẫn tới có những sai sót, ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ đảng viên.
Năm 1921, Đảng Cộng sản Nga tại Đại hội X quyết
định chuyển sang thực hiện chính sách Kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin khởi thảo
với nhiều chủ trương mang tính “đột phá”,
đặt ra nhiều kỳ vọng nhưng cũng đầy rẫy khó khăn, thách thức, nhất là trong nội
bộ cán bộ, đảng viên. Nhận thấy sự tồn tại của các phe nhóm, các tư tưởng và xu
hướng phân tán, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, biểu hiện “tha hóa quyền lực” của
một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền là những nguy cơ hiện hữu cho
việc quán triệt, triển khai và thực hiện đường lối mới. Vì vậy, V.I. Lênin đã
nghiên cứu và chuẩn bị “Nghị quyết về vấn
đề thanh đảng” và được Đại hội X tán thành, triển khai thực hiện. Đồng thời,
Người viết bài báo “Về vấn đề thanh đảng”
giải thích rõ hơn vì sao phải thanh đảng, mục đích, đối tượng, hình thức và
biện pháp thanh đảng để tuyên truyền tư tưởng, định hướng hành động thống nhất
trong toàn Đảng về vấn đề này:
Một
là, theo V.I. Lênin, thanh đảng là
vấn đề tất yếu khách quan, là quy luật vận động, phát triển của mọi tổ chức,
đặc biệt là với đảng cộng sản. Trong bài viết “Về vấn đề
thanh đảng”. Người chỉ rõ: Thanh đảng đã trở thành vấn đề nghiêm túc, đặc biệt
quan trọng. Tiến hành việc đó phải dựa vào kinh nghiệm của công nhân, quần
chúng ngoài Đảng, dựa vào các tổ chức Xô-viết.
Hai là, theo V.I. Lênin, các thói hư, tật xấu của cán bộ, đảng viên
thường bộc lộ trong những giai đoạn lịch sử có tính chất bước ngoặt, trước
những yêu cầu mới của tình hình nhiệm vụ. Vì vậy, để làm trong sạch đảng trong
những giai đoạn, những thời khắc lịch sử này nhất thiết phải tiến hành thanh
lọc đảng viên.
Ba
là, địa vị của Đảng Cộng sản Nga
thay đổi sau Cách mạng Tháng Mười. Sức hấp dẫn của đảng ngày càng lớn, nhiệm
vụ, trọng trách và phương thức lãnh đạo của Đảng cũng thay đổi. Các phần tử cơ
hội, thực dụng rất dễ tìm mọi thủ đoạn để chui vào Đảng, mưu cầu lợi ích cá nhân
hoặc chống phá Đảng. Bên cạnh đó, khi đảng cầm quyền, Đảng duy nhất lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, cán bộ, đảng viên có chức, có quyền dễ nảy sinh tham nhũng,
quan liêu, xa rời quần chúng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Vì vậy, phải tiến hành thanh đảng để loại bỏ những phần tử thoái hóa biến
chất và giáo dục, răn đe, cảnh tỉnh những đảng viên khác trong toàn Đảng.
Mục
đích tiến hành thanh đảng
Theo V.I. Lênin, tiến hành
thanh đảng nhằm làm trong sạch đội ngũ đảng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên, cán bộ, viên chức trong các tổ chức đảng và bộ máy Nhà nước; giữ
nghiêm kỷ luật Đảng, khẳng định vị thế, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ, cụ thể:
Thứ
nhất, tiến hành thanh đảng để loại
trừ những đảng viên thoái hóa biến chất, bọn phiêu lưu, bọn khiêu khích, những
phần tử cơ hội, xét lại ra khỏi Đảng. Người chỉ rõ: “Tôi muốn nêu ra một nhiệm vụ đặc biệt, tức
là nhiệm vụ thanh trừ những phần tử Men-sê-vích cũ ra khỏi đảng. Theo tôi,
trong tất cả những người Men-sê-vích tham gia đảng từ sau thời gian đầu năm
1918, ta có thể lưu lại trong đảng, chẳng hạn, nhiều lắm là một phần trăm; và
cũng còn sẽ phải thẩm tra từng người một trong số những người được lưu lại đó, ba
hay bốn lần”[1].
Phải thanh lọc những phần tử này trong Đảng, vì “trong thời kỳ từ 1918 đến
1921, những người Men-sê-vích đứng về mặt trào lưu chính trị mà nói, thì họ đã
biểu lộ rõ hai đặc tính của họ: một là,
khôn khéo thích ứng, “chui” vào trào lưu đang thịnh hành trong công nhân; hai là, hết lòng hết dạ phục vụ bọn bạch
quân một cách còn khôn khéo hơn nữa, và thực tế phục vụ bọn bạch quân, mà miệng
thì cứ tuyên bố là từ bỏ bọn chúng. Hai đặc tính đó đều do từ trong toàn bộ
lịch sử của chủ nghĩa Men-sê-vích mà ra”[2].
Thứ hai, tiến hành thanh đảng nhằm nâng cao
chất lượng đảng viên, tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; khẳng
định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của đảng cầm quyền; lãnh đạo và tổ chức thực hiện chính sách NEP,
khôi phục sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh và nội chiến, đồng thời xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, tiến hành thanh đảng để đặc trị các
“căn bệnh”, các loại tội phạm, các sai phạm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trong bộ máy nhà nước như: bệnh kiêu ngạo, bệnh mù chữ, và bệnh hối lộ; đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, củng cố tăng cường mối liên hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân, củng
cố liên minh công - nông. “Cuộc
thanh đảng tới đây sẽ nhằm vào những người cộng sản lên mặt là quan cai trị”[3].
Đối tượng của thanh đảng
Theo V.I. Lênin có nhiều đối tượng đảng viên phải
tiến hành xem xét, điều tra, thử thách trong các đợt “thanh lọc” làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Tuy nhiên, thanh đảng
không có nghĩa là “loại bỏ hoàn toàn vô nguyên tắc” mà phải xem xét thận trọng,
kết luận rõ ràng, tùy theo từng đối tượng mà có đối sách phù hợp. Song tựu
chung lại có mấy nhóm đối tượng cần chú ý:
Một là, những kẻ bè phái chống Đảng như bọn Men-sê-vích, Tơ-rốt-kít,
những người Men-sê-vích gia nhập Đảng Cộng sản Nga sau giai đoạn 1918 khi cách
mạng đã thành công. Bởi lẽ, phần lớn những người này có biểu hiện cơ hội, lúc
cách mạng khó khăn thi né tránh, khi cách mạng thành công thì khẩn thiết tham
gia. Do đó, “phải thanh trừ ra
khỏi đảng độ chừng chín mươi chín phần trăm những người Men-sê-vích đã tham gia
Đảng Cộng sản Nga sau năm 1918”[4].
Hai là, những người thuộc các đảng phái khác ra nhập
Đảng Cộng sản Nga sau Cách mạng Tháng Mười. Theo V.I. Lênin, phải thẩm tra, xem
xét lại tư cách và động cơ của họ trước khi thanh lọc “những người thuộc các
đảng khác gia nhập đảng sau tháng Mười năm 1917”[5].
Ba là, “những người gia nhập đảng xuất thân từ tầng
lớp quan lại và viên chức đã làm việc cho các chính phủ cũ”[6].
Bốn là, “những người đã giữ những chức vụ gắn liền với những đặc
quyền đặc lợi nào đó”[7].
Năm là, những người thuộc viên chức Xô
viết và những đảng viên quan liêu, thoái hóa, không trung thực, nhu nhược, xu
nịnh, luồn lọt, bọn tham ô, ăn cắp, “bọn người lập ra hết ban này ban nọ, mà
không làm và không biết làm một công tác thực tiễn nào”.
V.I. Lênin yêu cầu thẩm tra, điều tra, kết
luận, xử lý hoặc “đuổi ra khỏi Đảng” những đảng viên không đủ tiêu chuẩn, hoặc
trước đây là đảng viên nhưng nay đã không còn kiên định, bấp bênh, dao động
hoặc đã lộ rõ bản chất gian giảo, nhu nhược, không trung thực, xu nịnh, ăn cắp,
quan liêu, tha hóa, trong đó có cả những đảng viên thiếu năng lực.
Hình thức và biện pháp tiến hành thanh đảng
Xác định rõ
mục đích, chỉ rõ đối tượng thanh đảng là những việc hệ trọng, khó khăn, phức
tạp, song để tiến hành thanh đảng đạt hiệu quả, theo V.I. Lênin, toàn Đảng,
từng tổ chức đảng và mỗi đảng viên phải có nhận thức đúng, đề cao trách nhiệm
trong lựa chọn và sử dụng các hình thức và biện pháp khác nhau, phát huy sức
mạnh tổng hợp, sức mạnh nội lực trong nội bộ và sức mạnh ngoại lực từ các tổ
chức, các lực lượng, nhất là quần chúng nhân dân.
Một là, Đảng phải có
đường lối đúng, tuân thủ nghiêm ngặt Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các
nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Hai là, tiến hành
đăng ký lại đảng viên, kết hợp với thẩm tra, điều tra, xác minh, thanh tra,
kiểm tra chặt chẽ, kết luận đúng người, đúng việc, khách quan, công bằng, minh
bạch.
Ba là, dựa vào những kinh nghiệm và ý
kiến của quần chúng nhân dân, của giai cấp công nhân và các tổ chức quần chúng.
Lẽ dĩ nhiên theo V.I. Lênin, không thể nghe theo tất cả mọi ý kiến của quần
chúng, không theo đuôi quần chúng, nhưng cần lưu ý những ý kiến nhận xét, đánh
giá của quần chúng về bọn quan liêu hóa, bọn làm quan cách mạng đôi khi lại rất
quý báu. “Thanh đảng bằng cách chú trọng đến những lời chỉ dẫn của người lao
động ngoài đảng là một việc lớn. Công việc đó sẽ mang lại cho chúng ta những
kết quả đáng kể. Nó sẽ làm cho đảng trở thành một đội tiên phong cả giai cấp vô
sản”[8].
Bốn là, tiến hành thử thách rèn luyện, sàng lọc
đảng viên trong thực tiễn, thông qua việc phân công, giao nhiệm vụ, động viên họ
ra mặt trận, tham gia lao động cộng sản chủ nghĩa...
Năm là, chấn chỉnh hệ thống tổ chức cơ sở đảng; thanh lọc đảng viên toàn
diện, từ thấp đến cao, từ cấp tối cao xuống đến cơ sở, “không vị nể cá nhân”;
đồng thời, nâng cao chất lượng, điều kiện, tiêu chuẩn và bảo đảm đúng các thủ
tục nguyên tắc trong kết nạp đảng viên; quản lý, giáo dục và rèn luyện đảng
viên, kết hợp với sàng lọc đội ngũ đảng viên.
Sáu là, tiến hành thanh đảng phải gắn liền với cải cách, cải tiến bộ máy
chính quyền nhà nước, thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
Đặc biệt, theo V.I. Lênin, dù không hề mong
muốn song ở những nơi mà bọn đê tiện “lẩn lút vào trong Đảng ức hiếp quần chúng
thì cần có những biện pháp quyết liệt”, “Thanh trừ bằng khủng bố, xử ngay tại
chỗ, hành hình ngay tức khắc” những phần tử phản đảng, hại dân, không còn khả
năng cải tạo,...
2. Vận dụng quan điểm về thanh đảng của V.I. Lênin trong xây dựng đội
ngũ đảng viên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng ta là một đảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong suốt chiều dài lịch sử, dù khi thuận lợi hay
lúc khó khăn đều kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
và xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, trong đó có quan
điểm của V.I. Lênin về vấn đề thanh đảng để xây dựng đội ngũ đảng viên đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
Đại
hội IV (1976) của Đảng tổng kết về công tác xây dựng Đảng đã khẳng định, phải
coi trọng cả 04 nội dung trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên: Thứ nhất, công tác quản lý đảng viên; thứ hai, công tác giáo dục, rèn luyện đảng
viên; thứ ba, công tác phát triển đảng
viên; thứ tư, công tác sàng lọc đảng
viên. Theo đó: Công tác phát triển đảng viên phải coi trọng chất lượng, không
chạy theo số lượng đơn thuần, phát triển Đảng đi đôi với củng cố Đảng. Một mặt, kết nạp những người ưu tú đủ
tiêu chuẩn vào Đảng; mặt khác, đưa ra
khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất và những người không đủ tư cách đảng
viên; cảnh giác với những phần tử cơ hội và phản động chui vào Đảng. Đại hội X
của Đảng (2006) tiếp tục chỉ rõ: “Việc kết nạp đảng viên phải coi trọng chất lượng,
tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Đảng, đạo đức, lối sống,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ”[9]; đồng
thời kiên quyết: “Khai trừ những đảng viên
thoái hoá về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước”[10].
Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về xây dựng đội
ngũ đảng viên theo hướng: “Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng
viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng”[11]; “Kiên
quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên”.
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu và
quyết tâm hành động: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”[12]. Tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; coi đây là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền,
các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích
nhóm”, “nói không đi đôi với làm”.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng tiếp tục chỉ ra
27 biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống;
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để tùy theo mức độ mà các cấp ủy,
chính quyền, ban, ngành, đoàn thể xem xét, điều tra, kiểm tra, kết luận, xử lý
nghiêm minh “đúng người, đúng việc” các trường hợp và mức độ sai phạm của đảng
viên. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không xứng đáng; đồng thời, xử lý
những người vi phạm theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, “không có
vùng cấm”, “không có biểu hiện nhẹ trên, nặng dưới”, làm kiên quyết, triệt để,
không có hiện tượng “đánh trống bỏ rùi”.
Những nhận thức và quan điểm, phương châm của Đảng ta qua các
thời kỳ, các kỳ đại hội, các văn bản, nghị quyết, quy định,… đều nhất quán trước
sau như một khẳng định Đảng ta trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm của C.
Mác - Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản về
xây dựng đội ngũ đảng viên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, những quan điểm
của V.I. Lênin về vấn đề thanh đảng được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn.
Trong điều kiện tình hình hiện nay, việc vận dụng tư tưởng của
V.I. Lênin vào công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, nhất là công tác sàng lọc đảng
viên cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng
cường tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, nghiên cứu, học tập nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng, những nội dung tư tưởng về
xây dựng Đảng của giai cấp công nhân, trong đó có quan điểm, tư tưởng thanh đảng
của V.I. Lênin để vận dụng vào công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, nhất là
công tác sàng lọc đảng viên bảo đảm đúng hướng, chặt chẽ và có chất lượng.
Hai là,
tiến hành tốt công tác phát triển đảng viên, kết hợp chặt chẽ với công tác quản
lý đảng viên, giáo dục, rèn luyện và sàng lọc đội ngũ đảng viên ở tất cả các cấp
bộ đảng, nhất là đảng viên ở cơ sở, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Ban Chấp hành Trung ương quản lý; đảng viên là cán bộ chủ trì, chủ chốt
trong các cơ quan của hệ thống chính trị; đảng viên công tác trong các lĩnh vực
trọng yếu, cơ mật, lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm. Đồng thời, điều tra, thẩm tra,
xác minh, kết luận, xử lý nghiêm các đảng viên sai phạm, vi phạm quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, đưa ra khỏi đảng những đảng viên thiếu năng lực, mất uy
tín, giảm sút uy tín nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới thanh danh của Đảng. Đặc biệt,
cần quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) “về tăng cường củng cố, xây dựng tổ
chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. “Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên. Chủ động
nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những
vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch”[13]. Đồng thời, “tăng cường
công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng
viên không đủ tư cách”[14].
Ba là,
gắn kết chặt chẽ cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng với việc đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021
của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, các cuộc vận động,
các phong trào hành động cách mạng của các tổ chức, các lực lượng, các tầng lớp
nhân dân. Động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng
viên, giám sát, góp ý, phê bình, khiếu nại, tố cáo các sai phạm, tiêu cực của
cán bộ, đảng viên.
Bốn là,
tích cực đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai, trái, thù địch, phản động bảo vệ,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng; làm tốt công tác tổ chức, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, có biện pháp
hữu hiệu để bảo vệ danh dự, uy tín, sức khỏe, tính mạng, tài sản của cán bộ, đảng
viên và nhân dân trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá, đe dọa, mua chuộc, lôi
kéo, khủng bố, ám sát… của các thế lực thù địch./.
Phan Văn Lương
#SQCT
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
(1) Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011.
(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016.
(4)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2021.
(5)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2021.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị Trung ương 5 khoá XIII “Về tăng cường củng cố, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”,
Hà Nội, 2022.
(7) V.I. Lênin, Toàn tập, tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.
(8) V.I. Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.
(9) V.I. Lênin, Toàn tập, tập 45, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.
[1]
V.I. Lênin, Toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 44, tr. 152 - 153.
[2] V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tập 44, tr. 153.
[3]
V.I. Lênin, Toàn tập,
Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tập 45, tr. 19.
[4] V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978,
tập 44, tr. 153.
[5]
V.I. Lênin, Toàn tập,
Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tập 43, tr. 433.
[6]
V.I. Lênin, Toàn tập,
Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tập 43, tr. 433.
[7]
V.I. Lênin, Toàn tập,
Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tập 43, tr. 433.
[8] V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978,
tập 44, tr. 152.
[9]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 301.
[10]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 301.
[11]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 260.
[12]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 202.
[13]
Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội
nghị Trung ương 5 khoá XIII “Về
tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên trong giai đoạn mới”, Hà Nội, 2022, tr. 08.
[14]
Sđd, tr. 08.
Thanh đảng để loại trừ những đảng viên thoái hóa biến chất, những phần tử cơ hội, xét lại ra khỏi Đảng là việc làm rất cần thiết
Trả lờiXóa