HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC Ở VIỆT NAM - THƯỚC ĐO UY TÍN, NĂNG LỰC ĐẢNG CẦM QUYỀN
Tham nhũng, tiêu cực và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng, tiêu cực được nhận diện là “quốc nạn”, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được xác định là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và phức tạp. Bài viết khái quát cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng để đấu tranh với các luận điểm phản động của các thế lực thù địch và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới.
1. Tham nhũng là một phạm trù lịch
sử, có nguyên nhân từ sự “tha hóa quyền lực” và lòng tham cá nhân
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây
phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy
cắp của công. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) định nghĩa tham
nhũng là lạm dụng chức vụ, quyền lực cho lợi ích cá nhân, thông qua hối lộ,
tống tiền, thao túng thị trường, thiên vị người thân, gian lận, chuyển tiền
hoặc tham ô. Ngân hàng Thế giới (WB) định nghĩa tham nhũng là sự lạm dụng chức
vụ công để tư lợi. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 của Việt Nam đã xác
định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (1). Vụ lợi
được hiểu là: “Lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt
được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng” (2). Tuy có nhiều quan
niệm và cách diễn đạt khác nhau, nhưng có điểm chung thống nhất là: Tham nhũng
là hành vi của người (hoặc nhóm người) có quyền lực, đã lợi dụng quyền lực để
trục lợi riêng. Dấu hiệu nhận biết hành vi tham nhũng bao gồm đồng thời ba dấu
hiệu đặc trưng sau: thứ nhất, tham nhũng phải được thực hiện bởi người có chức
vụ, quyền hạn; thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng, lạm dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao; thứ ba, người
thực hiện hành vi tham nhũng phải có mục đích, động cơ vụ lợi.
Tham nhũng
là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự ra đời của giai cấp và nhà
nước; là hiện tượng phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế; xảy ra ở mọi lĩnh vực
liên quan đến hoạt động quản lý xã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng tham nhũng luôn song hành cùng quyền lực, là “bóng tối vươn theo quyền lực”, là “khuyết tật
bẩm sinh” của quyền lực; chừng nào các hình thức quyền lực chính trị còn bị tha
hoá, quyền lực nhà nước còn bị lợi dụng, quyền lực không được kiểm soát thì
nguy cơ xảy ra tham nhũng là hiện hữu. Nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự
“tha hóa quyền lực” công và lòng tham cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, Nhà
nước trước hết đại diện cho quyền lực của một giai cấp nhất định, có chức năng
điều hòa những lợi ích của các giai cấp khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quyền
lực của Nhà nước khi được trao cho những con người cụ thể, những người đại diện
cho Nhà nước thực thi quyền lực công, nếu không có cơ chế kiểm soát dễ dẫn tới
sự lợi dụng quyền lực hoặc lạm quyền. Khi quyền lực công không được kiểm soát
chặt chẽ và nhu cầu cá nhân vượt quá giới hạn cho phép sẽ dẫn tới việc sử dụng
quyền lực công phục vụ cho nhu cầu cá nhân; đó chính là cơ sở nảy sinh tham
nhũng.
Bệnh tham nhũng trong cán bộ, đảng
viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt trong một thuật ngữ chung
nhất là “tham ô”. Người chỉ rõ, “Tham ô là lấy của công làm của
tư. Là gian lận, tham lam” (3); “tham ô là trộm cướp” (4). Theo Bác “của công”
chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích
chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Bất cứ hành vi nào lấy “của
công” làm “của tư” cũng đều là hành vi tham ô. Người khẳng định, chủ nghĩa
cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con nguy hiểm; một thứ vi trùng rất
độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm khác. Trong số những căn bệnh
do chủ nghĩa cá nhân gây ra, tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm nhất, là
“hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội” (6), “Chủ nghĩa cá
nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi
ích chung của tập thể, “miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy” (5).
Tham nhũng là một loại hành vi tiêu
cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, là biểu hiện cụ thể của suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng và tiêu cực, nhất là suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ gắn bó mật thiết,
chặt chẽ với nhau; nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái
về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống; do đó, “Phòng chống tiêu cực, mà trọng
tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham nhũng” (7).
Tham nhũng (thường
biểu hiện dưới các dạng: Tham nhũng vật chất, tham nhũng quyền lực, tham
nhũng chính trị, tham nhũng hành chính, tham nhũng kinh tế) luôn là vấn nạn,
nguy cơ tiềm tàng gây ra những hậu quả, tác hại hết sức to lớn trên các lĩnh
vực đời sống, xã hội; được ví như dịch bệnh nguy hiểm có thể phá vỡ bất kỳ thể
chế chính trị nào. Tham nhũng gây ra tác hại rất nghiêm trọng đối với phát
triển kinh tế; làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội, phá hoại những giá trị
đạo đức tốt đẹp làm tha hóa biến chất đội ngũ cán bộ, công chức; là một trong
những nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, là
một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Tình trạng tham nhũng ở các quốc gia ngày
càng có xu hướng phát triển sâu rộng hơn, tinh vi hơn, khó ngăn chặn hơn và trở
thành vấn đề toàn cầu. Chính vì thế, ngày 31 tháng 10 năm 2003, Công
ước Liên hiệp quốc về Phòng, chống tham nhũng được Đại hội đồng Liên hiệp quốc
thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 14 tháng 12 năm 2005. Tính đến ngày 6
tháng 02 năm 2020, Công ước đã có 187 thành viên, trong đó có 181 quốc gia là
thành viên của Liên hợp quốc (trên tổng số 193 quốc gia là thành viên của Liên
hợp quốc). Tại Việt Nam, ngày 30 tháng 6 năm 2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết đã ký Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN “Về việc phê chuẩn Công ước của
Liên hợp quốc về chống tham nhũng”; ngày
07 tháng 4 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số
445/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc
về chống tham nhũng”.
Như vậy có thể khẳng định tham
nhũng là một phạm trù lịch sử, có nguyên nhân từ sự “tha hóa quyền lực” và lòng
tham cá nhân; xuất hiện, tồn tại phổ biến ở mọi quốc gia dân, tộc, không phân
biệt thể chế, chế độ chính trị; vì vậy mọi luận điệu cho rằng “Chế độ một đảng
cầm quyền là nguyên nhân sinh ra nạn tham nhũng”; “Đảng cộng sản không thể chống
được tham nhũng”, “chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam
quyền phân lập”, để kiếm soát quyền lực”... là phản động và phi khoa học trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Hiệu quả phòng chống nạn tham
nhũng, tiêu cực ở Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm nhận thức và ngày
càng xác định rõ hơn về nguy cơ, tác hại của tệ tham nhũng, tiêu cực đối với Đảng,
chế độ và sự nghiệp xây dựng đất nước. Khẳng định,
công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài;
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng tham ô, tiêu cực là “những căn bệnh nguy hiểm”, “là giặc nội xâm”,
không chỉ gây hiệt hại về kinh tế, mà
còn làm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm
hư hỏng cán bộ, suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; gây mất lòng tin của quần
chúng nhân dân. Đảng ta luôn xác định phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực là “một cuộc đấu tranh gay
go” phải tiến hành thường xuyên, kiên
quyết, bền bỉ không ngừng
nghỉ; phải thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị tư tưởng, tổ chức, hành
chính, kinh tế, hình sự; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động
phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực; đồng
bộ giữa xử lý kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của
đoàn thể và xử lý hình sự; mọi cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức sai phạm phải xử lý kịp thời, nghiêm minh và công khai, không có vùng
cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai.
Thời gian gần
đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng đi vào
chiều sâu. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng chống tham
nhũng được quan tâm, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Vai trò, trách nhiệm, sức chiến
đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong phòng chống tham nhũng được nâng lên. Việc xây dựng và tổ chức
thực hiện các cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để phòng chống
tham nhũng được quan tâm. Công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử
lý các hành vi tham nhũng, lãng phí, suy thoái được đẩy mạnh. Tổ chức và hoạt động
của cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng chống tham nhũng từng bước
được kiện toàn, phát huy hiệu quả. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện,
xử lý nghiêm minh, “Trong 10 năm qua (2012 - 2022), đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ
chức đảng và hơn 167.700
cán bộ, đảng viên, trong đó có
hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý (có 4 ủy viên Bộ Chính trị,
nguyên ủy viên Bộ Chính trị; 36 ủy viên Trung ương nguyên ủy viên Trung ương; hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ
trang); qua thanh tra, kiểm toán kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700
tập thể, cá nhân, chuyển cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200
vụ việc có dấu hiệu tội phạm” (8). Đánh giá
về công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, Đại hội XIII của Đảng đã nhận
định: “Công tác đấu tranh phòng chống
tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào
chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại
lệ và đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, rõ rệt, được cán bộ, đảng viên và
nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng
bước được kiềm chế, ngăn chặn, có chiều hướng thuyên giảm” (9). Điều đó khẳng
định, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam không phải là “thanh trừng phe
phái”; hay “đấu đá nội bộ” như một số thế lực thù địch xuyên tạc; đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam là việc làm cần thiết, tất yếu,
một xu thế không thể đảo ngược; góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại,
đặc biệt là góp phần lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân, bác bỏ luận điệu
sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối. Những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, đã khẳng định bản
lĩnh, uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, “Với tất cả sự khiêm tốn,
chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (10). Đó là luận cứ đanh thép, minh chứng
hùng hồn bác bỏ luận điệu của các thế lực thù địch, “Tập trung vào chống tham
nhũng sẽ làm nhụt chí những người dám nghĩ, dám làm và làm chậm sự phát triển của
đất nước”; ngược lại công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt
Nam chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng
chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản
lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm.
Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả tương đối toàn diện đã đạt được, “Công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có
chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức.
Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm
tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị
còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ
công chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn
còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc
trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của
Đảng và chế độ ta” (11).
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Một là,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực
Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam; là người khởi
xướng lãnh đạo, chỉ đạo, là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của công
tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nhờ có sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện, thường xuyên, chặt chẽ của Đảng mà công cuộc đổi mới đất
nước nói chung, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng được triển
khai đồng bộ, đạt được bước tiến lớn. Trên cơ sở của những quan điểm chỉ đạo, Đảng
đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng ngày càng đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm, với bước đi, lộ trình phù hợp. Những kết
quả toàn diện trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua có
nguyên nhân cơ bản là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời với quyết tâm chính trị rất cao của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; trực tiếp là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, do đồng chí Tổng Bí thư, làm Trưởng ban.
Những chủ
trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng về phòng
chống tham nhũng, tiêu cực là những vấn đề có tính chất nền
tảng, có ý nghĩa định hướng, dẫn dắt toàn bộ hoạt động phòng chống tham nhũng,
tiêu cực của hệ thống chính trị. Do vậy, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện
quyết liệt các quan điểm, chủ trương, quyết sách về phòng
chống tham nhũng, tiêu cực mà Nghị quyết Trung ương 3 Khóa
X, Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 3 Khóa X, Chỉ thị số 50-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Kết luận 05-KL/TW, ngày
03/6/2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị trong công
tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; nhất là tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, “tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...”; “kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả
hơn” (12) .
Hai là, hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật để “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không cần tham
nhũng”
Đây là giải pháp quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hiện nay, hành vi tham nhũng ngày càng
tinh vi; phạm vi, quy mô ngày càng lớn, tính chất, mức độ ngày càng nguy hại,
khó lường. Vì vậy, các ngành, các cơ quan liên quan theo chức năng của mình cần
tích cực, chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước rà soát, bổ sung, ban hành hệ
thống văn bản về chính sách, pháp luật phù hợp với tình hình thực tiễn, tạo
hành lang pháp lý và cơ chế chặt chẽ, nhằm thiết lập những “hàng rào” phòng
ngừa thực sự vững chắc, làm cho cá nhân, “nhóm lợi ích” không thể tham nhũng. Nghiên
cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng cập nhật, bao quát những
nội dung mới nảy sinh trong quá trình vận động, phát triển của thực tiễn; bảo
đảm quyền lực được kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên, được “nhốt” vào trong
“lồng” cơ chế; tăng tính răn đe bằng khung hình phạt và sự ràng buộc liên đới
trách nhiệm xã hội đối với thân nhân của người tham nhũng. Đồng thời, quyết
liệt thực hiện “không có vùng cấm” trong công tác bảo vệ, thực thi pháp luật;
mọi hành vi tham nhũng, liên quan, liên đới,... đều bị điều tra, xét xử đúng
người, đúng tội và bị trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật, bất kể người đó là
ai, giữ cương vị, trọng trách nào trong hệ thống chính trị, để “không dám tham
nhũng”.
Tiếp tục kiện toàn, phát huy hơn
nữa vai trò của các cơ quan phòng, chống tham nhũng, giúp việc các cấp uỷ từ
Trung ương đến cơ sở. Các cơ quan nội chính, kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm
sát, xét xử phải là những “thanh bảo kiếm” sắc bén, có dũng khí đấu tranh ngăn
chặn những việc làm sai trái, lợi ích nhóm, mưu lợi cá nhân; có nghiệp vụ, bản
lĩnh bảo vệ cái đúng, chỉ rõ cái sai, can ngăn những việc làm chưa đúng; có quy
định để ngăn ngừa những sai phạm từ chính những cơ quan chống tham nhũng.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có đạo
đức, năng lực, liêm chính
Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém”. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài thực
sự liêm chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, cả trước
mắt và lâu dài; phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học và hiệu
quả. Thực hiện nghiêm, nhất quán quan điểm Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan chức năng các cấp cần tham mưu cho Đảng,
Nhà nước về tiêu chuẩn, quy trình, quy hoạch, bồi dưỡng, sử dụng, tuyển chọn tất
cả các chức danh, nhất là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị từ Trung
ương đến cơ sở, bảo đảm chặt chẽ, phù hợp với mỗi chức danh cụ thể và sự vận động,
phát triển của thực tiễn; tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh, gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lựa chọn, bố trí những cán bộ, đảng viên có đức,
có tài, thực sự liêm chính vào làm việc trong bộ máy nhà nước. Siết chặt kỷ luật,
kỷ cương đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới,
sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Tăng
cường kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực; xử lý kịp thời, nghiêm minh
những tổ chức, cá nhân lạm dụng, lợi dụng quyền lực, vi phạm kỷ luật của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết loại ra khỏi bộ máy những cán bộ tham vọng
quyền lực, tham nhũng, cơ hội, vụ lợi, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Mỗi
cán bộ, đảng viên phải nêu cao bản lĩnh chính
trị, trí tuệ, ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân; tận dụng
mọi điều kiện có thể để tự học, tự rèn, tự bồi dưỡng; đồng thời, lắng nghe,
tiếp thu những ý kiến đóng góp của nhân dân, không ngừng nâng cao phẩm chất,
trình độ, năng lực toàn diện đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được
giao. Cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo phải biết trọng liêm sỉ,
giữ danh dự; luôn dựa vào nhân dân, lắng nghe nhân dân, gắn bó máu thịt với
nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò của các cơ
quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, của nhân dân và báo chí trong phòng chống tham
nhũng, tiêu cực
Quốc hội,
hội đồng nhân dân là các cơ quan dân cử đại diện cho quyền dân chủ gián tiếp
của nhân dân có chức năng quan trọng là giám sát việc thực thi pháp luật của
các cơ quan Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát việc thực thi
pháp luật; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cần phải đổi mới, nâng cao chất
lượng các phương thức giám sát (giám sát thông qua việc xem xét báo cáo; giám
sát thông qua kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; giám sát
thông qua việc trả lời chất vấn; giám sát trực tiếp tại địa phương...). Tiếp
tục đẩy mạnh việc xây dựng, ban hành và cụ thể hóa các quy định pháp luật về
hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử để xác định rõ ràng, cụ thể, phạm vi,
thẩm quyền, đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này đối với các
cơ quan công quyền. Trên cơ sở các
quy định của pháp luật, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần nâng cao ý thức
trách nhiệm, năng lực và hiệu quả việc tham gia góp ý, phản biện xã hội đối với
các dự thảo chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; các lĩnh vực dễ xảy
ra tham nhũng, lãng phí như chính sách, pháp luật về quản lý đất đai, tài
nguyên; công tác cán bộ; các quy định liên quan đến cơ chế phân công, phân cấp,
xác định trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân; thủ tục hành chính;
tài chính công… Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường
lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; nâng cao nhận thức,
trách nhiệm và trình độ, kỹ năng giám sát, phản biện xã hội cho cán bộ Mặt trận
các cấp.
Đảng,
Nhà nước cần sớm cụ thể hóa các quyền công dân, quyền dân chủ bằng những quy
định cụ thể những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng để Nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình; tiếp tục hoàn thiện
và bổ sung cơ chế giám sát của người dân, có thêm nhiều hình thức tiếp thu rộng
rãi hơn sự phản ánh, phát hiện của Nhân dân về những sai phạm của cán bộ, đảng
viên để kịp thời đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung những quy định cần thiết trong Quy chế Dân chủ ở cơ sở và sớm luật hóa
Quy chế này, đưa việc thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở vào
cuộc sống.
Các
cơ quan báo chí, người làm báo là lực lượng xung kích, đi đầu trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền lợi của nhân dân; là tai
mắt của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng; cần quán triệt, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực; nắm vững phương châm “Xây là cơ bản, xây để chống hiệu quả, chống kịp
thời để xây tốt hơn”; mỗi thông tin về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực phải bảo đảm chính xác, có căn cứ, bằng chứng rõ ràng, tuyệt đối không thêm
bớt, không cắt xét, không quy chụp, không võ đoán. Có cơ chế khen thưởng,
khích lệ, động viên kịp thời, xứng đáng với những người làm báo có tinh thần
dấn thân, đóng góp tích cực, hiệu quả trong công tác tuyên truyền, đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
(1) , (2) Khoản 1, 2, Điều 3, Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018, tr. 5, 6
(3) Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 7, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr. 296, 297
(4) Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 7, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr. 357
(5) Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 14, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr. 141
(6) Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 13, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr. 90
(7), (8) Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta ngày càng
trong sạch vững mạnh, Nxb CTQGST, H. 2023, tr.26
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, H.2021, tập 1, trang 76, 77.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, H.2021, tập 1, trang 25.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, H.2021, tập 1, trang 92, 93.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, H.2021, tập 2, trang 250.
Công tác chống tham nhũng phải triệt để và giải quyết tận gốc
Trả lờiXóa