Vì những mục tiêu xấu độc, trên internet, MXH có
kẻ cho rằng “Nhà nước Việt Nam theo mô hình Xô viết”, chế độ “độc tài toàn
trị'', ''lệ thuộc vào nước ngoài''... Vậy lịch sử và thực tiễn chế độ xã hội
XHCN ở Việt Nam đã vận động và phát triển như thế nào?
Thứ Tư, 17 tháng 10, 2018
Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018
Đấu tranh loại bỏ những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Trong bản Di chúc cuối cùng Người đặc biệt căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của Dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Thấm nhuần lời dạy của Người, nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên hơn 80 năm qua, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành công của công cuộc đổi mới, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; đời sống của nhân dân ổn định, người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; được phát huy quyền làm chủ trên đất nước mình. Điều đó được khẳng định bằng sự đoàn kết, thống nhất của toàn Đảng, của toàn dân tộc.
Truyền thống đó ngày càng được phát huy trước những khó khăn thử thách, trong cuộc đấu tranh “phòng, chống tham nhũng”; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Những ngày gần đây, Chủ tịch nước Trần Đại Quang mất là nỗi đau, nỗi mất mát của gia đình và toàn thể dân tộc Việt Nam. Con người sinh ra và đi vào cõi vĩnh hằng là quy luật của tạo hóa. Cùng với niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài, sự chia buồn sâu sắc của bạn bè quốc tế. Vẫn còn đó những kẻ ấu trĩ, bệnh hoạn, mù quáng lợi dụng để xuyên tạc, chống phá; chúng tưởng tượng và mở giọng gào thét với những lời lẽ gàn dở, bịa đặt như: nội bộ Đảng mất đoàn kết. Thật nực cười chúng còn ra sức cắt, ghép hình ảnh để bôi nhọ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước hòng lôi kéo sự cả tin, ngộ nhận của những kẻ thoái hóa, biến chất, đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Những hành vi, thủ đoạn bỉ ổi của bọn chúng sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng; hãy nhìn vào những bản án giành cho những kẻ tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước. Hãy quay đầu là bờ, sống và hành động xứng đáng là người Việt Nam.
Sự thật vẫn luôn là sự thật, nhân dân luôn tin theo Đảng, ý Đảng hợp lòng dân; sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng được minh chứng trong lịch sử và tiếp tục được củng cố vững chắc trong thời đại ngày nay. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Xây Dựng Đảng.
BQK./.
ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI CHO RẰNG "TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÔNG CÓ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG, THỐNG NHẤT VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN"
Với tham vọng, tạo ra được một “khoảng trống” về
tư tưởng trong Đảng ta, trong xã hội ta, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tan rã từ bên trong, thực hiện mục tiêu chiến lược cuối cùng là xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, buộc nước ta
phải đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, phục tùng sự chi phối của nước
ngoài.
Một trong những mục tiêu
chúng tập trung chống phá quyết liệt là phủ định
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Bản chất sâu xa của sự phủ
định này là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Những
quan điểm, luận điệu sai trái đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, được chúng bịa đặt
ở nhiều khía cạnh khác nhau, một trong những khía cạnh đó là: Tư tưởng Hồ Chí Minh không có mối quan hệ biện
chứng, thống nhất với chủ
nghĩa Mác
- Lênin.
Vạch trần
quan điểm, luận điệu sai trái trên, phải dựa trên những luận cứ khoa học, đã
được kiểm nghiệm trong thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam mấy chục năm qua về
tính đúng đắn, sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - ngọn đuốc soi đường, đảm bảo cho thắng lợi vẻ
vang của cách mạng nước ta gần 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau chín năm rời Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã dày công nghiên cứu một số cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu. Người nhận
thấy rằng, những cuộc cách mạng đã đưa một số nước từ chế độ phong kiến lạc hậu
trở thành những nước tư bản hùng mạnh, với một xã hội được coi là có dân chủ,
tự do, bình đẳng, bác ái, như các nước: Pháp, Anh, Mỹ… Tuy nhiên, đằng sau sự
"hào nhoáng" về dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái ấy là sự lừa bịp, phản
bội lợi ích của nhân dân lao động, chế độ người bóc lột người ngày càng phát
triển với trình độ cao hơn trước… Trong hoàn cảnh đó, tháng 7/1920 Hồ Chí Minh
đã đọc trên Báo Nhân đạo của Pháp bản Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin.
Sơ thảo Luận cương nói về giải phóng dân tộc, một vấn đề mà Hồ Chí Minh đã ấp ủ
tìm kiếm. Ngồi một mình trong phòng, Người đã reo lên như đang nói trước đồng
bào: “Hỡi đồng bào bị đày đọa đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng cho chúng ta”1.
Người đã tìm ra “cẩm nang” để cứu nước, giải phóng dân tộc. Cũng từ đây, Hồ Chí
Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin, được coi là bước ngoặt quyết định trong
nhận thức, tư tưởng của Người về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”2.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đã mở ra một thời
đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, với nước ta vẫn phải sống dưới ách đô hộ của đế
quốc, phong kiến. Nhiều nhà yêu nước
Việt Nam trong thời kỳ đó, cũng muốn tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc và
đưa ra những tư tưởng canh tân mới. Thế nhưng, họ đều bị hạn chế trong tư
tưởng, nhận thức về con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàng Hoa Thám mang
nặng tư tưởng phong kiến, lỗi thời; Phan Bội Châu sang Nhật cầu viện, chẳng
khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo
cửa sau”; Phan Chu Trinh tư tưởng cải lương chỉ chờ mong xin quân giặc
“rủ lòng thương”. Nhìn ra nước ngoài, cuộc Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc năm
1911, với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên cũng không đủ sức thu hút với
Nguyễn Ái Quốc. Người tiếp tục khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1. Người còn chỉ rõ: Chủ nghĩa Lênin đối
với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không chỉ là cái “cẩm
nang” thần kỳ, không những là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con
đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc,
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Người tìm thấy trong chủ
nghĩa Mác - Lênin về phương thức đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống áp bức
bóc lột để tự giải phóng cho dân tộc mình. Người thấy được sự gắn bó khăng khít
giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc
thuộc địa, bị áp bức. Từ Lênin, Người tiếp tục nghiên cứu sâu về Mác và Ăngghen
để hoàn thiện lý luận về giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, phong kiến, đem
lại độc lập, tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân tộc mình.
Toàn bộ
lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, quan hệ biện chứng với chủ nghĩa
Mác - Lênin về những
vấn đề của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc xã
hội chủ nghĩa. “Đó là hệ thống quan điểm,
tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của
dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng;
về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng…”2. Đây là những vấn
đề cốt lõi nhất của cách mạng cả trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng
ta dễ dàng cảm
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh trong chủ nghĩa Mác - Lênin
được hòa quyện, thống nhất, biện chứng, không tách rời. Suốt cả cuộc đời, Hồ Chí Minh đã
trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin để giành độc lập, tự do cho đất nước
và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Chưa ai có thể tìm được sự đối lập, khác
biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mọi luận điệu tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin,
càng chứng tỏ bọn phản động rất sợ hãi trước sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng phải giở những trò lừa bịp để xuyên tạc
sự thật và lừa dối quần chúng nhân dân. Trước đây, khi phê phán Cau-xky phản bội lại chủ nghĩa Mác,
Lênin đã từng vạch trần: Cau-xky,
một người thuộc lòng chủ nghĩa Mác lại xuyên tạc chủ nghĩa Mác một cách kỳ quặc
như vậy?... để che dấu sự phản bội của mình, Cau-xky bất cứ ở chỗ nào cũng nhất
nhất phải giở trò lừa bịp.
Điều này, giúp chúng ta liên tưởng các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất luôn tìm
mọi chiêu bài, thủ đoạn mặc dù cũ rích, nhưng
hết sức tinh vi, xảo quyệt, đổi trắng thay đem, không ngoài mưu đồ phủ nhận nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta chính là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, luôn soi sáng và bảo đảm cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh.
NQH./.
2 ĐCSVN, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của BCT về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh, tr. 2.
MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Kết
hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật chung, được hầu hết các
quốc gia trên thế giới nghiên cứu và áp dụng trong điều kiện khi đời sống nhân
loại còn tồn tại chế độ tư hữu, nhà nước và sự đối kháng giai cấp. Hoạt động
mang tính chủ động này của con người nảy sinh từ chính sự tồn tại mối quan hệ
khách quan giữa kinh tế với các lĩnh vực chính trị, chiến tranh, quốc phòng và
quân đội, cũng như từ yêu cầu thực tiễn phải giải quyết mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ đất nước ở mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh vừa là chủ
trương, đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ
sung, phát triển phù hợp với yêu cầu mới.
Đây là chủ trương
chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các
văn kiện của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: "Kết hợp chặt chẽ kinh
tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và trên từng địa bàn”. Tiếp
đó, Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm (2011-2020) cũng chỉ rõ: "Gắn
kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ QP-AN với phát triển KT-XH trên
từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình,
dự án”. Trong Báo cáo Chính trị, Đảng ta tiếp tục xác định: "Kết
hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN; QP-AN với kinh tế trong từng
chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa,
biên giới, biển đảo”. Đó là nhận thức xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Sau thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
chủ trương thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Chủ trương đó được xác định là một nội dung trong đường lối xây
dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12 năm 1976) thông qua,
được tổ chức chỉ đạo nhất quán và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng
thời kỳ lịch sử. Đến nay, việc thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng đã thu được những thành tựu quan trọng, tạo nên sự chuyển biến vững chắc
từ cả hai phía kinh tế và quốc phòng và niềm tin vào tính đúng đắn của chủ
trương đó của Đảng. Trên cơ sở tổng kết rút ra những bài học từ những kết quả
đạt được, các Đại hội V, VI, VII, VIII, IX X, XI và XII của Đảng, đã tái khẳng
định thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới.
Quán
triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám (khoá
IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, vấn đề thực hiện chủ
trương kết hợp kinh tế với quốc phòng – với tính
cách là một phương thức, một giải pháp chiến lược. Để biến những tư tưởng về
bảo vệ Tổ quốc trong Nghị quyết của Đảng thành hiện thực của cuộc sống, phù hợp
với đặc điểm tình hình của giai đoạn cách mạng mới, việc kết hợp kinh tế với
quốc phòng cần thực hiện theo hàng loạt những nội dung cơ bản thể hiện trên
lĩnh vực kinh tế nói chung bao gồm các nội dung:
1.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
2.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong đổi mới hoạt động quản lý của Nhà nước.
4.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng
kinh tế- xã hội.
5. Kết hợp
kinh tế với quốc phòng trong hoạt động kinh tế đối ngoại.v.v..
Nỗ lực vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục
Có thể nói giáo dục Việt
Nam thời gian qua có nhiều thành tựu góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát
triển nguồn nhân lực nước nhà. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải vượt qua
những thách thức không nhỏ. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là đội
ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo đã nhận thấy những bất cập, hạn chế của ngành giáo
dục cần phải khắc phục, đó là: Chương trình học có môn còn quá tải; phương pháp
dạy học còn thiên về truyền thụ kiến thức nên chưa phát huy được tính tích cực
của người học; việc kiểm tra, thi cử còn nặng về điểm số dẫn tới áp lực cho học
sinh; giáo dục đại học chưa đáp ứng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
đất nước…
Nhận thức sâu sắc vấn đề
đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách nhằm từng bước khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực giáo dục, tiếp tục
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức GD&ĐT; xây dựng nền giáo dục
mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn
hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống
GD&ĐT. Từ đầu năm 2018 đến nay, nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và kỳ họp của Quốc hội đã góp ý, thảo luận sôi nổi về việc sửa đổi Luật
Giáo dục và Luật Giáo dục Đại học hiện hành để sớm thông qua vào kỳ họp gần
nhất. Động thái này của Quốc hội cũng không ngoài mục đích tạo ra “cú hích”
mới, động lực mới thúc đẩy sự phát triển giáo dục nước nhà trong thời gian tới.
Giáo dục liên quan đến
mọi người, mọi nhà và ảnh hưởng mật thiết đến sự ổn định, phát triển của quốc
gia. Do vậy, khi nhìn nhận, đánh giá về giáo dục rất cần phải được xem xét toàn
diện, thấu đáo ở mọi khía cạnh, đặt trong mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, giữa những thành quả đổi mới đã đạt được và những sức ỳ, lực cản trong
lộ trình đổi mới cần phải khắc phục. Không nên lấy một vài cái sai đơn lẻ trong
hoạt động giáo dục hay những vấn đề đang còn tranh luận để phủ nhận những nỗ
lực đổi mới giáo dục cũng như những thành quả giáo dục của Việt Nam trong những
năm qua. Vì điều đó làm tổn thương đến tình cảm, niềm tin, tinh thần nhiệt
huyết, trách nhiệm cao cả của hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên và hàng vạn
cán bộ quản lý giáo dục đang lặng thầm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.
NVH./.
Những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn
Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách
mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính
trị thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, trong đó tham nhũng là
vấn đề được chúng triệt để lợi dụng. Cả thế giới đã thừa nhận, tham nhũng là tệ
nạn mang tính toàn cầu, tham nhũng xuất hiện và tồn tại ở mọi quốc gia trên thế
giới, các nước dù đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) hay tư bản chủ
nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng
không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước...
Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động lại ra sức rêu rao rằng: “Chế độ
một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “do đảng cầm quyền
độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra...”; “tham nhũng là sản phẩm
tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”... Không chỉ
vậy, họ còn cho rằng: Tham nhũng chỉ xuất hiện ở những nước đi theo con
đường XHCN, “tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN ở
Việt Nam”... Thực chất của giọng điệu ấy không gì khác là lợi dụng cuộc đấu
tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu hòng làm suy giảm uy tín
tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN
ở Việt Nam. Khi mà chúng ta chưa đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hoặc
đã làm nhưng kết quả chưa rõ nét thì họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam
không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng tham
nhũng, suy thoái”... Khi Đảng và Nhà nước ta thể hiện quyết tâm chính trị,
đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, kiên quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên
có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì chúng lại tung ra những giọng điệu lạc
lõng, dựng chuyện, xuyên tạc rằng thực chất cuộc đấu
tranh PCTN ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến thanh trừng phe
phái trong nội bộ Đảng”, "là sự đấu đá nội bộ, phe phái trong Đảng
Cộng sản Việt Nam". Đề cập đến câu hỏi làm thế nào để dẹp bỏ nạn tham
nhũng ở Việt Nam, họ cho rằng: “Chỉ khi nào ở Việt Nam có chế độ đa đảng
thì nạn tham nhũng mới có thể dẹp bỏ được”... Từ những thông tin cóp nhặt trên
mạng xã hội, họ còn vẽ ra, dựng nên những câu chuyện nói rằng các phe nhóm nội
bộ ở Trung ương và địa phương đang đấu đá nhau... Đặc biệt, họ thường suy
diễn, chụp mũ, xuyên tạc những ý kiến chỉ đạo chống tham nhũng của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng và một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... Những giọng
điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là xuyên tạc mục đích, ý nghĩa tốt đẹp của
cuộc đấu tranh này; bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ ta, gây phân tâm trong xã
hội, làm giảm sút ý chí, quyết tâm PCTN và lòng tin của nhân
dân vào Đảng, vào chế độ.
NVT./.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)