Social Icons

Pages

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

BẢN CHẤT “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI Ở CÁC NƯỚC TƯ SẢN


Dựa trên “học thuyết phân quyền tư sản”, những người có quyền lập pháp ở các nước tư sản đã ban hành vô số điều luật thiết tưởng sẽ chia tách được quyền lực của ba nhóm lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Ở đó, người ta “thực sự” tin rằng, nhờ chế định “dân sự quản lý quân sự” (dân quản quân) đã được ghi tạc, ban hành trong luật pháp thì “chắc chắn” việc của quân đội tất yếu là việc của phái dân sự thực hiện, chứ “dứt khoát” không phải là việc của đảng phái nào, phái quân sự nào! Tuy nhiên, trái ngược với những tư tưởng “tam quyền phân lập”, thực tiễn đời sống pháp luật tư sản cho thấy một nghịch lý với hoài niệm “tốt đẹp” về nó. Muôn vàn ví dụ về quản lý nhà nước đối với quốc phòng của Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới cho thấy rõ điều này. Trên thực tế, dù luật pháp của Hoa Kỳ có chặt chẽ đến đâu thì các chính đảng vẫn can thiệp cả vào lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Hoa Kỳ đã trải qua 45 đời tổng thống, chỉ có tổng thống đầu tiên là G. Washington không thuộc đảng phái nào; còn 44 tổng thống khác đều là người đứng đầu hay đại diện cho các đảng phái khác nhau. Hầu hết các Tổng thống Hoa Kỳ đều nhất quán thực thi đường lối của đảng đã cử mình làm đại diện tranh cử. Ví dụ như, trong quá trình tranh cử, ông Đô-nan Trăm (ứng cử viên đại diện cho Đảng Cộng hòa) tuyên bố sẽ rút quân đội khỏi Trung Đông nếu trúng cử. Và giờ đây khi là tổng thống, Ông đã thực thi đường lối quân sự đó. Như vậy, tư tưởng, đường lối nhất quán của một chính đảng và một tổng thống đắc cử đã thực thi. Do đó, không có cái gọi là “dân quản quân”, mà thực chất là “đảng quản quân”.
Một vài ví dụ khác, năm 1950, Tổng thống Mỹ Truman chọn Thống tướng Lục quân G. Marshall mới nghỉ hưu được hơn 5 năm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong khi Luật An ninh quốc gia Mỹ năm 1947 quy định: “Bộ trưởng phải được chỉ định từ giới dân sự. Đối với cựu quân nhân Mỹ, họ chỉ có thể được đảm đương chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau 10 năm kể từ khi họ giải ngũ”. Mới đây, ông J. Mattis, Đại tướng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ, mới nghỉ hưu năm 2013 vẫn được Tổng thống Đô-nan Trăm đề cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng viện phê chuẩn ngày 20-01-2017, trong khi luật pháp Hoa Kỳ năm 2008 quy định: “người rời khỏi quân đội ít nhất 7 năm mới được làm bộ trưởng quốc phòng” và “quá trình bổ nhiệm quan chức quân sự, chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân sự, không có chiều ngược lại”. Điều trên cho thấy nguyên tắc “dân quản quân” đã không được thực hiện triệt để.
Nhiều nước trên thế giới, như: Nga, U-crai-na, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia,… Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thường là quân nhân. Ở Nga, đến năm 2001 mới có ông S. B. I-va-nốp là người dân sự đầu tiên làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng đến năm 2012, Tổng thống V. Putin sử dụng lại người nhà binh, bổ nhiệm Đại tướng S. Sôigu làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Quyết định đó được các chuyên gia quân sự đánh giá cao, cho rằng, người đứng đầu quân đội phải nắm rõ việc quân sự, phải có uy với cấp dưới, khi cần quản lý nhà nước đã có cố vấn, thư ký hỗ trợ; nếu người dân sự làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì sẽ khó thể hiện tính quyết đoán, nhất là giải quyết những vấn đề đột xuất, đòi hỏi quyết đoán nhanh trong điều kiện khó khăn, căng thẳng.
Có thể thấy, bản chất chế định pháp lý người đứng đầu quân đội (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) ở Mỹ và một số quốc gia khác không phải là quân nhân, mà là dân sự, đó không có nghĩa là “dân sự hóa” quân đội mà là sử dụng con người dân sự cụ thể để quản lý công việc quân sự. Tuy nhiên, chế định này không phải lúc nào cũng thực hiện được. Vì vậy, quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội ở Việt Nam, cho rằng “Quân đội chỉ phục tùng Hiến pháp, không phục tùng luật Đảng” chỉ là sự thiếu hiểu biết về tri thức pháp lý và quản lý nhà nước về quốc phòng của một số người mà thôi.

BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ NHỮNG "SAI LẦM" DÂN CHỦ - NHÂN QUYỀN


Chiến tranh Việt Nam (Theo cách gọi của Mỹ (chiến tranh Đông Dương lần 2), 10% dân số Đông Dương thiệt mạng (riêng Việt Nam là 2 triệu binh lính 2 miền, hơn 3 triệu dân thường), 70.000 lính Mỹ bỏ mạng (59.000 bị tiêu diệt và 11.000 do các lý do khác) - cả thế giới lên án, Mỹ thừa nhận đã sai lầm trong cuộc chiến tàn khốc này.
Chiến tranh Afghanistan, khoảng 100.000 người Afghanistan bị giết hại, hàng trăm nghìn người khác chết do nội chiến kéo dài, chính quyền Taliban bị lật đổ; hơn 2.200 lính Mỹ bỏ mạng.
Chiến tranh vùng Vịnh lần 1 và lần 2 (chiến tranh Iraq), do bom đạn Mỹ - Nato và hậu quả nội chiến sau đó, khoảng 7% dân số Iraq bị giết hại (trên 2 triệu người), Sadam Husein bị xử tử; gần 5.000 lính Mỹ bỏ mạng - một số đồng minh của Mỹ thừa nhận sai lầm, Mỹ tuyên bố "hoàn thành sứ mệnh".
Chiến tranh Lybia, 10% dân số Lybia bị giết hại (hơn 600.000), Gaddafi bị hành quyết dã man không qua xét xử; Đại sứ Mỹ cùng một số nhân viên sứ quán ở đây và một số binh lính bỏ mạng - một số quốc gia Nato thừa nhận sai lầm, Mỹ tuyên bố "hoàn thành sứ mệnh"..
Chiến tranh Syria: 10% dân số Syria bị giết hại (trên 2 triệu người), đất nước này bốc hơi 50% số dân do chạy tỵ nạn; Mỹ đòi "Adsad phải ra đi"; phía Mỹ không mất một binh sỹ nào ngoài một số chiến binh "tình nguyện" đánh thuê cho các bên, kể cả trong hàng ngũ IS - Mỹ và Nato đang tiếp tục đẩy mạnh sự can thiệp tại đây.
Tất cả các cuộc chiến nêu trên, Mỹ đều chơi trò "đánh hội đồng" với một lô một lốc chư hầu nhằm vào các quốc gia nhỏ yếu có chủ quyền.
Máu của người dân, tài nguyên của các quốc gia bị xâm lược, và cả máu của binh lính cùng tiền thuế của người dân Mỹ, dân các nước chư hầu đã được chuyển thành tiền vào túi các nhà tài phiệt!
Và Mỹ "sửa chữa sai lầm" bằng cách giảm số lính Mỹ chết, xúi dân các nước tự giết nhau bằng vũ khí của Mỹ!
Riêng cuộc chiến Đông Dương, Mỹ buộc phải bỏ của chạy lấy người vì "lỗ vốn" trước sức mạnh quật cường mang tên Việt Nam, đem lại khoảng thời gian hòa bình quý báu cho cả khu vực này. Còn toàn bộ vùng Trung Đông - Bắc Phi đến nay vẫn chìm trong khói lửa chiến tranh bạo tàn, khủng bố, bạo loạn, nghèo đói và chết chóc... Khủng khiếp nhất là tại Syria, Lybia, Iraq, Afghanistan không biết đến khi nào mới kết thúc...
Chỉ biết rằng, Mỹ đã có mặt "vững chắc" ở đây, để kiểm soát toàn bộ thuốc phiện từ Afghanistan, dầu lửa từ các nước trong khu vực và cả nguồn lợi từ "đầu tư tái thiết sau chiến tranh"! (theo tài liệu sau, cho đến 2015 Mỹ đã thu giữ 30 tỷ USD, 143 tấn vàng, một số lượng tương tự tấn bạc là tài sản của nhân dân Lybia từ Ngân hàng Nhà nước Lybia và các tài khoản của Chính phủ Lybia ở nước ngoài: http://www.globalresearch.ca/arab-spring-the-fall-o…/5544453. Số tiền và tài sản đó, sẽ không bao giờ dân Lybia được thấy nữa.
Còn đây là sắc lệnh 13.566 của Obama về việc "phong tỏa'' tài sản của Gaddafi và chính quyền Lybia, thực tế đều dành để chăm lo cho cuộc sống người dân Lybia như thiên đường trước khi xảy ra chiến tranh: https://www.whitehouse.gov/…/02/25/executive-order-13566-li…)
Sẽ không rõ đến bao giờ chúng lại tuyên bố: "chúng tôi đã sai lầm"?
Chỉ biết rằng, sai lầm lớn nhất lại xuất phát chính từ các quốc gia bị xâm lược, khi họ đã để cho con bạch tuộc "dân chủ, nhân quyền" phương Tây vươn vòi vào từng ngõ ngách đất nước mình!
(HMN)

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2019

CHỦ ĐỘNG NGĂN CHẶN SỰ TÁC ĐỘNG CỦA TIÊU CỰC, TỆ NẠN XÃ HỘI TRONG THANH NIÊN QUÂN ĐỘI


Hoạt động đơn vị rất phong phú, muôn hình, muôn vẻ ngoài thời gian huấn luyện ở trên thao trường, bãi tập thì thời gian nhàn rỗi của chiến sĩ rất nhiều có những chiến sĩ biết sử dụng thời gian đó vào việc làm có hiệu quả tích cực như đọc lại bài học đã học, đọc tài liệu…Có những thanh niên không biết tận dụng thời gian đó vào việc có ích mà đang lãng phí thời gian đó và bị tiêm nhiễm bởi những tác động của tiêu cực, tệ nạn xã hội ở bên ngoài xã hội. Từ đó vi phạm kỷ luật vi phạm vào những chế độ quy định của đơn vị ảnh hưởng không nhỏ đến phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” mà lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta đã dày công vun đắp và xây dựng nên.

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG NHẬN DIỆN VÀ PHÒNG CHỐNG, NGĂN CHẶN NGUY CƠ “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG


Hiện nay, các thế lực thù địch đang chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực và bằng mọi thủ đoạn vô cùng thâm độc, nham hiểm. Với chiến lược “Diễn biến hòa bình” chúng thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong gây mất ổn định, chia rẽ nội bộ bằng việc thực hiện đánh ngầm, đánh sâu, đánh hiểm trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức lối sống mọi chỗ, mọi nơi, nhằm tách mỗi cá nhân ra khỏi tập thể, làm thoái hóa biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm mất lòng tin của dân với Đảng; thực hiện phi chính trị hóa quân đội, cổ vũ lối sống buông thả, tự do vô kỷ luật, từ đó gây mất ổn định nội bộ, tiến tới tự diễn biến làm đổ vỡ thể chế chính trị từ bên trong.

NHẬN THỨC LỆCH LẠC, SAI TRÁI CỦA BẢO GIANG


Gần đây, trên trang mạng danlambao, Bảo Giang đăng bài viết “Chung bầu trời, hai lối đi”. Nội dung bài viết là những nhận định lệch lạc, hết sức sai lầm và hoàn toàn mang tư tưởng hẹp hòi, đố kỵ khi so sánh về hai con người đó là Hồ Chí Minh với Ngô Đình Diệm; so sánh về hai chế độ là chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với chế độ cộng hòa ở miền Nam.
Trước hết, Bảo Giang ca ngợi Ngô Đình Diệm và phê phán Hồ Chí Minh. Với cách tiếp cận cảm tính, sai ngay từ gốc. Bảo Giang ca ngợi Ngô Đình Diệm như mẫu người “Hiền”, vì dân, vì nước. Bảo Giang nên biết rằng, Ngô Đình Diệm chính là một chính trị gia phong kiến, khoác áo tư sản; cái ghế Tổng thống Việt Nam cộng hòa của ông ta là do người Mỹ dựng lên cho một kẻ mang nặng tư tưởng phong kiến hẹp hòi, gia đình trị. Chính ông ta đã xé bỏ Hiệp định Pari, phá hoại Tổng tuyển cử ở Việt Nam năm 1956, là thủ phạm hủy hoại hòa bình gây ra cảnh nồi da, xáo thịt ở Việt Nam. Chính ông ta đã ban hành Luật 10/59 “Loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, lê máy chém đi khắp miền Nam gây ra bao cảnh đau thương cho dân tộc. Và cũng chính ông ta là người đã tuyên bố “Biên giới nước Mỹ kéo dài đến vĩ tuyền 17”; hô hào “lấp sông Bến Hải, Bắc tiến” gây ra sự thù địch, đối đầu giữa hai miền Nam – Bắc.
Cái kết tốt đẹp cuối cùng của ông ta là bất ngờ bị ngoại bang giật dây cho đám đàn em, tay chân lật đổ; khi ông ta đã lâm cảnh “cá nằm trên thớt” cầu cứu, van xin mạng sống thì được đám tay chân tặng cho những viên đạn sáng loáng được sản xuất từ nước Mỹ, mà không có một phiên tòa xét xử, phán quyết. Và cái thây ma chính trị được chôn cất sơ sài trong một góc khuất nghĩa trang, người đời không được nghe tiếng cầu kinh ban phước lành cho về nước Chúa. Nhục thay cho thân phận của kẻ bán nước, bám gót ngoại bang, lại cực đoan, ngu muội, gia đình trị. Tiếc thay, giọt nước mắt ác điểu của Bảo Giang đã rơi không đúng chỗ.
Còn thân thế, sự nghiệp Hồ Chí Minh như thế nào cả thế giới, các dân tộc trên thế giới đều biết. Xin nhắc Bảo Giang rằng, lịch sử vốn rất công bằng, không ai mua được lòng tin, tình cảm của con người; không đơn giản mà cả thế giới tôn trọng, tôn vinh, ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, bởi đây là con người đã góp phần làm nên lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX.
Thứ hai, Bảo Giang so sánh chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với chế động cộng hòa ở miền Nam. Bảo Giang nên mở mắt ra mà nhớ rằng từ năm 1955 đến năm 1975, ngoài việc tiếp nhận viện trợ từ nước ngoài, và đấu đá bè đảng chính trị, lật đổ, hất cẳng nhau thì chế độ Việt Nam cộng hòa tuyệt đối không có chính sách nào đáng kể để cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Người nông dân vẫn chỉ làm thân phận tá điền không ruộng đất, không học hành, khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, hơn 70% nông dân không có ruộng đất, và cũng tương đương với con số đó là người mù chữ cùng với một Sài Gòn phồn hoa của giai cấp tư sản, đầy rẫy xike, ma túy, gái mại dâm. Chế độ quân chủ và bộ máy chính quyền của những kẻ ác ôn đã chà đạp lên giá trị, nhân phẩm, sinh mệnh của người dân; còn Công, Minh, Liêm, Chính chẳng qua là trò chơi của các thế lực chính trị lòe bịp dân chúng mà thôi. Di sản của nó là cơ sở kinh tế què quặt, đại bộ phận nhân dân trắng tay chỉ làm thuê, cuốc mướn; văn hóa, giáo dục mất gốc, dặt dẹo không có nổi một bài hát đúng nghĩa để dạy cho thiếu niên, nhi đồng; không có mục tiêu, lý tưởng, không có tình yêu nước và lòng tự hào dân tộc.
Còn chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với chế độ công hữu, đã xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng, bình đẳng về tiến bộ xã hội. Chỉ trong 20 năm đã có hơn 90% dân số biết đọc, biết viết; văn hóa phát triển toàn diện, con người được quan tâm giáo dục về trí thức, tình yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Đó chính là nguồn gốc sức mạnh để nhân dân miền Bắc cùng với đồng bào miền Nam đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chính chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nền tảng chính trị, tinh thần, nền tảng phát triển kinh tế, văn hóa cho chế độ và đất nước Việt Nam hiện nay.
Và cũng thật đáng xấu hổ cho đám danlambao, khi Bảo Giang có mắt như mù, có học thức mà không có nhận thức, không biết đến tình hình thế giới, tình hình thực tế của Việt Nam. Mà vẫn phun ra những giọng điệu xưa cũ; vẫn khóc mướn cho những thây ma chính trị lỗi thời với những giọt nước mắt của loài ác điểu. Mà không tự hỏi vì sao ông Donal Trum, ông Kim Jong – Un lại chọn Việt Nam để tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều. Vì sao ông Donal Trum lại viết lời cảm ơn Việt Nam trên mạng xã hội Twitter: “cảm ơn vị chủ nhà hào phóng của chúng ta ở Hà Nội tuần này: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và những người dân Việt Nam tuyệt vời”.
Dẫu có gian manh, xảo quyệt đến đâu thì những lời nói, bài viết chua chát, cực đoan, bất mãn của dạng trí thức nửa mùa, thất thế cũng chẳng lòe bịp được ai. Chúng ta phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, vạch trần những luận điệu sai trái, thù địch này./.


CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH CỦA PHẠM TRẦN


 Gần đây, trên nhiều diễn đàn phản động đã xuất hiện bài viết “Tư duy đất sét Nguyễn Phú Trọng” của Phạm Trần. Xuyên suốt bài viết, Phạm Trần đã trắng trợn xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, hạ uy tín của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Mục đích nhằm “tạo hiệu ứng” cổ súy cho những hoạt động chống phá của “đồng bọn” hướng vào công tác chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Khi đón biết toàn xã hội đang hướng sự chú ý vào quá trình chuẩn bị cho Đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Phạm Trần đã tung ra nhiều “chiêu trò” hòng bôi nhọ, hạ bệ uy tín người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước ta. Để thực hiện cho mưu đồ xấu xa ấy, Phạm Trần đã lượm lặt, cắt ghép, viện dẫn, đưa nhiều thông tin thất thiệt, hòng gây dư luận hoang mang trong xã hội. Y đã trắng trợn xuyên tạc con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nước ta, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng ta trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt, nắm được sự chỉ đạo, định hướng của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về “Chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Phạm Trần đã hướng mũi nhọn công kích vào những vấn đề nổi cộm, như: đổi mới chính trị; đấu tranh phòng, chống tham nhũng; chuẩn bị nhân sự cho đại hội Đảng các cấp; phát huy dân chủ trong xã hội… Thực chất, đây là chiêu trò đã quá cũ, một lần nữa được Phạm Trần lặp lại theo kiểu “đến hẹn lại lên”, nhằm hiện thực hóa âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam những năm gần đây. Chúng ta còn nhớ rõ, trước thềm Đại hội XII của Đảng, Phạm Trần và bè lũ của hắn cũng đã từng tung ra rất nhiều thông tin thất thiệt về tình hình chính trị, xã hội Việt Nam; đánh giá về năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; dự báo, bình phẩm về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng… Mong muốn của chúng nhằm gây tâm lý hoài nghi, hoang mang, xáo trộn trong dư luận; hạ bệ vai trò của Đảng; gây khó cho công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội các cấp tiến tới Đại hội XII. Nhưng bọn chúng đã thất bại ê chề, bởi chân lý luôn đứng về sự thật. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã diễn ra và thành công tốt đẹp.
Lần này, khi công tác chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp đang được đẩy mạnh, Phạm Trần và những kẻ hiềm khích lại lớn tiếng: Đảng Cộng sản Việt Nam đang mị dân về việc “đổi mới chính trị”, đẩy mạnh cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đồng thời, chúng rêu rao rằng: Đảng nói “dân chủ” mà dân “không được làm chủ”, chỉ “căng khẩu hiệu” chứ không quyết liệt hành động và suy diễn về một cuộc đấu đá kèn cựa nội bộ “nóng trên, lạnh dưới”… Thế nhưng, thực tế những kết quả thuyết phục đạt được trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” cũng như tinh thần quyết liệt, kiên quyết, kiên trì của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã phủ nhận hoàn toàn sự bịa đặt trắng trợn ấy của Phạm Trần. Có thể thấy rõ đây là cách làm “cũ rích” của Phạm Trần, hòng “nối giáo” cho các thế lực thù địch. Những luận điệu lèo lá của Phạm Trần không chỉ cũ về cả về nội dung thông tin mà còn cũ về phương thức tiến hành; thậm chí, cũ cả cái “bút danh” của hắn – kẻ trơ trẽn “sáng tác” ra những nội dung thâm độc phục vụ mục đích chính trị dơ bẩn.
Thời gian tới, dự báo Phạm Trần và đồng đảng của y sẽ điên cuồng chống phá, với nhiều chiêu trò tinh vi, nham hiểm, thâm độc hòng phá hoại đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và quan trọng nhất của toàn đảng, toàn dân ta.  Nhưng, tất cả những chiêu trò ấy chỉ là chút “mây mờ”, sẽ nhanh chóng bị xua tan bởi những luồn gió của chân lý, của sự thật./.