Social Icons

Pages

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2019

LUẬN ĐIỆU NHẢM NHÍ, TRƠ TRÁO CỦA TRẦN QUỐC VIỆT


Gần đây, trên nhiều diễn đàn phản động xuất hiện bài viết Nếu ai cũng đứng bên lề thì quê hương… của Trần Quốc Việt. Với lời lẽ hàm hồ, nhảm nhí, Trần Quốc Việt muốn “theo gót” đồng đảng gây nhiễu loạn thông tin, hòng xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phá hoại cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân ta. Đây là “chiêu trò” quen thuộc của các phần tử cơ hội chính trị, phản động “nhân dịp” toàn Đảng, toàn dân ta đang gấp rút chuẩn bị tổ chức đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
1. Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng, với đất nước là sự lựa chọn tất yếu, là ý nguyện của toàn dân. Đảng ra đời, phát triển hoàn toàn vì đất nước, vì dân tộc, vì nhân dân chứ không có mục đích nào khác. Hầu hết những người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đều hiểu rõ một điều, trong suốt chiều dài lịch sử, Đảng không giành quyền lực với bất kỳ đảng nào khác, mà Đảng ta đã được chính nhân dân tin tưởng, lựa chọn giao cho trọng trách lãnh đạo đất nước. Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, ngoài Đảng Cộng sản, ở nước ta còn có sự tồn tại của hai đảng (Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội); nhưng khi quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, hai đảng này cũng cuốn gói chạy theo. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam “đứng mũi chịu sào” “đồng cam cộng khổ” với nhân dân, trở thành hạt nhân chính trị tập hợp, quy tụ mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh Việt Nam để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước, thu non sông về một mối. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự hiện thân cho quyền lực chính đáng từ trong lịch sử.
Trong tình hình mới, Đảng Cộng sản Việt Nam là người khởi xướng, lãnh đạo, tổ chức thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến dài về mọi mặt, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Sự thật mãi mãi là như vậy! Nhưng vẫn có những kẻ u mê, ngu muội như Trần Quốc Việt, vì những mục tiêu hèn hạ của cá nhân đã đơ ra những lời lẽ xuyên tạc, nhảm nhí. Những lời lẽ đó chẳng thể dối lừa được bất kỳ ai, có chăng chỉ vạch trần bộ mặt trơ tráo, vong ơn của Trần Quốc Việt và cần phải thải loại Y ra “ngoài lề” con đường phát triển của dân tộc.
2. Nhân dân Việt Nam không thờ ơ, không “đứng bên lề”
Không chỉ trơ tráo, vong ơn, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, Trần Quốc Việt còn ra sức “tô vẽ” cho một tương lai nô lệ và tiêu vong của dân tộc. Theo y, căn nguyên là mỗi người dân đang thờ ơđứng bên lề, chưa dốc sức cho cuộc đấu tranh trường tồn, vì tự do và dân chủ. Luận điệu “xưa cũ” này không ngoài mục đích gây chia rẽ, kích động, hòng đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ và đảng viên của Đảng. Nhưng, một lần nữa thực tế khách quan đã đáp trả thích đáng những luận điệu xuyên tạc của Trần Quốc Việt. Bởi, hiện nay, dân chủ ở nước ta ngày càng được mở rộng, tăng cường và có cơ chế để bảo đảm thực hiện trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quyền lực nhà nước thực sự thuộc về toàn dân, chứ không hề nằm trong tay một tổ chức, một nhóm hay một cá nhân nào. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình qua hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền giải quyết thỏa đáng. Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng các ý kiến đóng góp của nhân dân, kể cả các ý kiến phản biện mang tính xây dựng. Quyền dân chủ còn được thể hiện qua các cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể… Mọi vấn đề thiết yếu của đất nước đều được Đảng, Nhà nước đưa ra bàn thảo, xin ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân trước khi quyết định.
Đồng thời, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã và đang hăng hái tham gia các công việc của đất nước, của địa phương, tham gia quản lý xã hội, theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Người dân được kiểm tra, giám sát mọi vấn đề, mọi công việc của đất nước là biểu hiện cao nhất của tinh thần dân chủ thực sự. Điều này không phải công dân của quốc gia nào cũng có được. Không cần đến một “miếng da lừa” có phép màu với những điều ước thần kỳ như Trần Quốc Việt, mà người dân Việt Nam đang dùng đúng sức mạnh, khả năng vốn có của mình để xây dựng tương lai tươi đẹp, hạnh phúc.
Tóm lại, những luận điệu nhảm nhí, trơ tráo, phản động của Trần Quốc Việt không thể phủ nhận được một chân lý hiển nhiên: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng “đạo đức, trí tuệ, văn minh”, có đầy đủ uy tín, trí tuệ, bản lĩnh, kinh nghiệm lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân Việt Nam chắc chắc sẽ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trần Quốc Việt và những kẻ phản động đang từng ngày từng giờ “chọc gậy bánh xe” cản đường phát triển của dân tộc sẽ bị gạt sang “lề đường”./.


MỐI QUAN HỆ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” VỚI “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ

Thuật ngữ “diễn biến hòa bình” xuất hiện lần đầu trong đời sống chính trị thế giới vào năm 1949. Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Dean Akison, trong một bức thư gửi Tổng thống Truman đã sử dụng khái niệm “diễn biến hòa bình” để chỉ sự chuyển hóa các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) thành tư bản chủ nghĩa. “Diễn biến hòa bình” do các nhà hoạch định chiến lược phương Tây soạn thảo từ cuối những năm 40 của thế kỷ 20, sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn chỉnh thành chiến lược vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20.
“Diễn biến hòa bình” là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực phản động quốc tế thực hiện dưới một phương thức mới, thủ đoạn mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

“Diễn biến hòa bình” gần đây có những biến thái mới (*):
Chủ thể của “diễn biến hòa bình” không chỉ là các thế lực thù địch (TLTĐ), các nước đế quốc chủ nghĩa mà còn cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bành trướng và bá quyền. Theo đó, động cơ chính trị của “diễn biến hòa bình” đã chuyển từ đấu tranh ý thức hệ là chính sang đấu tranh vì lợi ích dân tộc cục bộ là chính. Phương thức hoạt động của “diễn biến hòa bình” tập trung vào gây sức ép về kinh tế - tài chính và tấn công mạng thông tin; chuyển trọng tâm từ bên ngoài tác động vào trong các nước sang thúc đẩy các hoạt động chống đối ngay bên trong nội địa, trong nội bộ và tại chỗ là chính. “Diễn biến hòa bình” đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “công nghệ”, đó là “công nghệ lật đổ”. Triệt để sử dụng các trang mạng xã hội trên internet và vai trò của các tổ chức phi chính phủ để gieo mầm, thúc đẩy “xã hội dân sự”, khởi động sự phản kháng của các phần tử chống đối ở trong nước biểu tình phản đối để lật đổ chế độ. Mục tiêu chủ yếu của “diễn biến hòa bình” là làm thay đổi tính chất quốc gia, dân tộc của chế độ chính trị của các nước theo hướng có lợi cho CNĐQ và cường quyền về lợi ích địa - chính trị và địa - kinh tế thay vì mục tiêu chính trị cực đoan.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng (năm 2011): “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”. Đại hội XII, Đảng ta nhận định: “những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”.
“Tự diễn biến” được hiểu theo nghĩa là sự suy đồi ngay từ nội bộ, sự thay đổi theo chiều hướng xấu, chiều hướng tiêu cực. “Tự diễn biến” xảy ra ở hai phạm vi: đối với cá nhân và tổ chức. “Tự diễn biến” đối với cá nhân là sự thay đổi về nhận thức chính trị - xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng theo chiều hướng tiêu cực, xấu đi, nhận thức và hành động xa rời, nhận thức đi ngược lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. “Tự diễn biến” đối với tổ chức là có những thay đổi ở tầm vĩ mô về đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí làm suy yếu và tan rã tổ chức đó. “Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức. “Tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó.
“Tự chuyển hóa” là hậu quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến”, nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Nghị quyết T.Ư 4 khóa XII đã chỉ ra những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó đáng chú ý nhất là các biểu hiện sau: (1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. (2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. (3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. (4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. (5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an. (6) Móc nối, cấu kết với các TLTĐ, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
“Diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời và tác động lẫn nhau. Đó là mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, giữa nhân tố bên ngoài và bên trong. “Diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, trong đó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhân tố bên trong quan trọng nhất.
Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã khẳng định điều đó. Các TLTĐ thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Liên Xô và các nước XHCN. Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, giới hiếu chiến trong ban lãnh đạo Mỹ đã có kế hoạch chống phá toàn diện Liên Xô. Nhiều trung tâm Xô Viết học ra đời tại Mỹ và các nước Tây Âu khác về thực chất là những cơ quan tình báo nghiên cứu, soạn thảo chính sách chống Liên Xô và các nước XHCN khác. Các Chính phủ Mỹ thời Rigân, Bush, Clintơn đã ra nhiều chỉ lệnh chống phá Liên Xô và các nước XHCN trên tất cả các lĩnh vực. Thông qua các chiêu bài viện trợ nhân đạo để cung cấp tài chính cho các tổ chức đối lập: Công đoàn đoàn kết của Ba Lan, Luận bàn dân chủ của Hungary, Luận đàm mới của Cộng hòa dân chủ Đức, Luận đàm công dân ở Tiệp Khắc, Tính công khai của Bungary, v.v. Nhưng quan trọng nhất là sự suy thoái của Đảng Cộng sản Liên Xô diễn ra trước hết và chủ yếu ở các đảng viên giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt các cấp. Goócbachốp sau đó đã từng thừa nhận: mục tiêu của toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Đây là nguyên nhân chủ quan chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu.
Sau khi thua Việt Nam bằng súng đạn, Mỹ đã thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” của các TLTĐ là một trong bốn nguy cơ. Từ Đại hội VIII đến nay, nghị quyết các đại hội và nhiều nghị quyết Trung ương đã nhấn mạnh phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó đề cao ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”.
Nói tóm lại “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, đó là mối quan hệ giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan là quan trọng nhất. Phải tăng cường đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Làm tốt cuộc đấu tranh này, chúng ta sẽ bảo vệ được Đảng, được chế độ, đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.



VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀO ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Đề cập đến vấn đề tham nhũng Hồ Chí Minh thường dùng từ tham ô (hoặc nhũng lạm) và hay gắn với tệ quan liêu, lãng phí. Theo Người, “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. - Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”. Người còn cho rằng, “tham ô là trộm cướp”. Người lên án: “Tham ô là hành động xấu xa nhất của con người... Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng”, “tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nguyên nhân, nguồn gốc và điều kiện phát sinh tham nhũng. Về khách quan, Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô, lãng phí là căn bệnh “tứ chứng nan y” của mọi nhà nước, dù Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư bản hay Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa nếu không có sự giáo dục sâu sắc và mọi hoạt động của nhà nước không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô, lãng phí; những người có chức có quyền, dù to hay nhỏ đều có điều kiện để tham nhũng.
Người coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “kẻ địch”, là “giặc nội xâm”, “là cái xấu xa do xã hội cũ để lại, là như cái ung nhọt còn sót lại trên thân thể của người khổng lồ”, “kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Nó là kẻ thù rất nguy hiểm, vì không mang gươm, mang súng và nằm trong các tổ chức, ở mỗi cán bộ, đảng viên để làm hỏng công việc của ta, làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta; phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính. Vì vậy, “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị”.
Vận dụng tư tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng vào việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay cần thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp cơ bản sau:
Một là, giáo dục nâng cao nhận thức, phát huy vai trò đấu tranh chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hai là, tiếp tục  xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác phòng chống, tham nhũng có hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Bốn là, không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức.
Năm là, tích cực phát hiện, xử lý nghiêm các biểu hiện, hành vi tham nhũng.
Sáu là, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng để ngăn chặn từ gốc nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Lời dạy của Bác về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là vô cùng sâu sắc và hết sức quý báu. Thực hiện tư tưởng của Người, chống tham nhũng là trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân ta nhằm loại trừ những con “sâu”, “mọt” – kẻ thù nguy hiểm đang âm ỉ tấn công phá hoại, làm hạn chế sự phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới hội nhập và phát triển. Hiện nay, tham ô, tham nhũng là những hành động tiêu cực biểu hiện dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi khác nhau. Do đó, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, đặc biệt phát huy trò của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, có như vậy mới xây dựng Đảng, Nhà nước ta trong sạch, vững mạng thực sự của dân, do dân, vì dân.


Đoàn kết - lời căn dặn thiết tha trong Di chúc của Bác Hồ


Tư tưởng đoàn kết trong Đảng làm hạt nhân đại đoàn kết dân tộc của Bác Hồ có ý nghĩa chiến lược, nó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó đã động viên và phát huy cao độ sức mạnh của động lực dân tộc và giai cấp, tranh thủ được sự đồng tình quốc tế.
Đoàn kết là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng ta”. Bác căn dặn “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Bác dặn đoàn kết không có nghĩa là xuôi chiều, dễ người dễ ta. Để trong Đảng đoàn kết, trở thành một khối thống nhất phải thật sự nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, và phải chỉnh đốn lại Đảng. Bác không coi đó là một biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động của bản thân Đảng trong quá trình phát triển của cách mạng. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng ý chí kiên định, tránh tình trạng dao động, bi quan. Khi cách mạng thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn. Khi Đảng cầm quyền chỉnh đốn để tránh những sa ngã, thoái hoá biến chất, tự đánh mất mình, “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”

ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH “LỢI DỤNG PHÊ BÌNH ĐỂ LÀM VIỆC XẤU”


Một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng ta đã chỉ ra, đó là: “Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”. Mục đích của TPB&PB là: Với tổ chức, “cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ”; “để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng”. Nếu đoàn kết làm nên sức mạnh của Đảng thì TPB&PB được coi là cội nguồn sức mạnh bậc nhất của Đảng. Với các đảng viên, “một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”; “là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm”.
TPB&PB là phương pháp để giáo dục, rèn luyện đảng viên….
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Đảng ta một lần nữa yêu cầu: Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt TPB&PB. Xây dựng quy định TPB&PB, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. TPB&PB trong Đảng nói chung, đối với cán bộ, đảng viên của Đảng nói riêng đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và hiệu quả, nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đến nay. Tuy nhiên, trong thực hiện vấn đề này hiện nay vẫn tồn tại những bất cập đó là: Thứ nhất, tự phê bình thì mạnh dạn nhưng phê bình còn e dè, nể nang. Thứ hai, lợi dụng phê bình để hạ thấp uy tín người khác. Thứ ba, tinh thần đấu tranh TPB&PB của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, chưa nêu cao tính xây dựng, tính chiến đấu của người cán bộ, đảng viên. Thứ tư, người được phê bình thường có biểu hiện không thừa nhận khuyết điểm, thái độ cầu thị không tốt, thậm chí tiếp nhận các ý kiến phê bình của người khác một cách cực đoan; từ đó, cán bộ, đảng viên là cấp trên tìm cách để ý, trù dập những người phê bình mình là cấp dưới.
Vì vậy, một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra đó là: “Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”. Còn tồn tại những bất cập có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân cơ bản là do tư tưởng “ngại va chạm”, tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, tinh thần TPB&PB của một số cán bộ, đảng viên chưa cao. Nguyên nhân chính là do cán bộ, đảng viên còn bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, bị ràng buộc bởi lợi ích “được gì? mất gì?”; toan tính lợi ích cá nhân, cục bộ, bản vị vì lợi ích trước mắt, chưa vì lợi ích tập thể và lợi ích lâu dài. Nguyên nhân sâu xa của những bất cập trên còn do cán bộ, đảng viên chưa có văn hóa phê bình. Vì vậy, trong nhiều “vụ án ngàn tỷ” thời gian gần đây, có những người vi phạm rất nghiêm trọng, làm thất thoát tài sản lớn của Nhà nước, nhưng khi bị cơ quan pháp luật xét xử cũng chỉ nhận khuyết điểm là do hạn chế về nhận thức.
Vì vậy yêu cầu phê bình phải chân chính và có văn hóa:
Mỗi cán bộ, đảng viên phải phê bình một cách thẳng thắn, chân thành nhằm giúp đồng chí, đồng đội nhận rõ sai lầm, sửa chữa khuyết điểm để không ngừng tiến bộ, tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Do đó, các tổ chức đảng khi tiến hành TPB&PB, phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh. Mỗi cán bộ, đảng viên kiểm điểm phải bảo đảm tính trung thực trong tự kiểm điểm, người phê bình thì công khai dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng và cán bộ cấp trên phải làm gương cho cấp dưới. Đồng thời, phải kiên quyết xử lý kỷ luật những tổ chức đảng và cá nhân không thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt TPB&PB, không tự nhận sai lầm, khuyết điểm và che dấu những hạn chế, khuyết điểm cho nhau. Việc góp ý cho nhau, cùng nhau tiến bộ, nâng cao phẩm chất con người, phát huy tính tích cực của con người; cần nhận thức sâu sắc hơn, thực hiện triệt để hơn nguyên tắc TPB&PB để Đảng luôn trong sạch, làm cho uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao.
Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực TPB&PB. Đảng ta yêu cầu mọi tổ chức đảng và mọi đảng viên đều phải thực hiện tốt TPB&PB. Theo đó, phê bình không phải là sỉ vả, xúc phạm danh dự của nhau mà là sự thể hiện tình cảm đồng chí trong sáng, chân thành; phê bình là để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ và để đoàn kết tốt hơn; phê bình phải mang tính khách quan, vô tư, có lý, có tình, cổ vũ ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nhược điểm; phê bình phải trên nguyên tắc tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải, chống thổi phồng hoặc bóp méo sự thật; phải biết phân tích ưu điểm, khuyết điểm của đồng chí mình theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể... Chỉ có phê bình như thế mới là phê bình chân chính và mới có tác dụng; nói cách khác là phê bình có văn hóa.


Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc mục tiêu CNXH trước thềm Đại hội Đảng các cấp


Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam...
Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để công tác chuẩn bị chu đáo, việc tổ chức đại hội các cấp bảo đảm thành công tốt đẹp theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã quán triệt: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên các thế lực phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng thời điểm này để công kích, chống phá, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên XHCN ở Việt Nam.
Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam.
Lợi dụng thời điểm tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đang có những chuẩn bị bước đầu để tiến tới đại hội Đảng các cấp, “lộng giả thành chân”, các đối tượng này bắt đầu gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá.
Trên các trang điện tử, blog hải ngoại, họ vờ vịt tỏ thái độ ngạc nhiên, ra vẻ thông thái dạy đời: “Vì sao đến giờ này mà Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”. Họ cho rằng: “Ai cũng thấy là CNXH đã ở vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện XHCN tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được.
Chúng xuyên tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “Kinh tế thị trường, theo định hướng tư bản chủ nghĩa”; nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng XHCN…”.
Đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và phản động. Mục đích của những kẻ tung ra luận điều này rất rõ ràng là muốn xóa bỏ CNXH, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; bên cạnh đó là làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nói như vậy, luận điệu mà chúng nêu trên liệu có cần tranh luận? Chắc hẳn là không. Tuy nhiên cũng nên nói rõ để không “thật, giả, vàng, thau lẫn lộn”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX và ngót nửa đầu thế kỷ XX, đất nước không được độc lập, nhân dân không được tự do. Các phong trào từ “Cần Vương”, “Khởi nghĩa nông dân”, đến phong trào “Đông Du”, phong trào “Giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản dân tộc”… đều thất bại, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, cách mạng vô sản về Việt Nam. Từ khi có Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói như thế để thấy, con đường cách mạng vô sản tiến bộ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, CNXH là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc là gắn liên với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh, chủ thể quyết định vận mệnh của dân tộc và non sông đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Ngoài lợi ích của dộc tộc, nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Nhân dân một lòng theo Đảng. Lý tưởng cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân. Kiên định con đường đi lên CNXH là sự kiên định con đường thực tiễn mà nhân dân ta đang đi, kiên định mục tiêu thực hiện mà chúng ta đang hướng tới, là tiếp nối thành quả cách mạng của nhân dân ta và nâng lên tầm cao mới phù hợp với điều kiện lịch sử.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta tiếp tục con đường đã lựa chọn, kiên định mục tiêu CNXH mà tính đúng đắn, khoa học, cách mạng đã được thực tiễn chứng minh để xây dựng nước ta thực sự giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Kiên định con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật lịch sử, chứ không phải là “đi vào vết xe đổ của Liên Xô” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. CNXH hiện thực sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng mà còn làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay.
CNXH từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước trở thành hệ thống XHCN thế giới, trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy nhân loại phát triển và phẩm giá con người trong lòng xã hội được thực thi… Liên Xô sụp đổ là sự kiện địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX làm đau đớn nhân loại tiến bộ. Song nó phản ánh sự sai lầm về một mô hình khi đã xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc của CNXH.
Bên cạnh đó cũng phải nói rõ, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được trong hơn 30 đổi mới đến nay mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành tựu của công cuộc đổi mới, thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải là “kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" (Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, tr.102). Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là thành quả phát triển, hoàn thiện về mặt tư duy lý luận của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc trưng mang tính đặ c thù, khác căn bản về chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà đến những kẻ ngu ngơ nhất cũng không thể đánh đồng.
Thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mục đích hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; tác động, tiêm nhiễm tạo nhận thức lệch lạc, hoài nghi, tư tưởng hoang mang, dao động, từ đó suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh tranh phản bác, làm thất bại âm mưu phản cách mạng nguy hiểm này.