Social Icons

Pages

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

QUỐC HỘI, NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHÂN CHÍNH CHO Ý CHÍ VÀ NGUYỆN VỌNG CỦA NHÂN DÂN


Một số trang mạng và tài khoản cá nhân trên internet đang có những bình luận xấu độc về hoạt động của Quốc hội Việt Nam. Họ cho rằng đây là Quốc hội của Đảng chứ không phải của nhân dân vì có tới hơn 90% đại biểu là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thể chế bầu cử của Việt Nam là “Đảng chọn dân bầu”… Vậy vì sao các thế lực thù địch, những người tự gọi là “người bất đồng chính kiến” lại tung ra những luận điệu đó? Qua bài viết này, chúng tôi xin góp phần giải đáp những vấn đề trên.
Xuyên suốt các Hiến pháp của Việt Nam từ Hiến pháp 1946-Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đến Hiến pháp 2013 của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đều quy định: Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) được bầu cử theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân (HĐND) và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Về quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước là “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2-Chế độ chính trị).
Hiến pháp 2013 quy định về bầu cử như sau: Việc bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND. ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước.
Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND quy định: Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu ĐBQH và bỏ một phiếu bầu đại biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp. Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay, trừ trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Luật cũng quy định: Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử sẽ mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu và thực hiện bầu cử. Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri.
Những quy định về bầu cử của pháp luật Việt Nam là tiên tiến, công bằng và bình đẳng nhất. Ở một số quốc gia, như Hoa Kỳ chẳng hạn, việc bầu cử nguyên thủ (tổng thống và phó tổng thống) do các Đại cử tri (Elector) của các bang chứ không phải do dân bầu trực tiếp. Trước đó ở mỗi bang sẽ cử ra một số đại cử tri bằng đúng tổng số Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ của bang. Như vậy chỉ có phiếu của đại cử tri mới quyết định chức vụ nguyên thủ.
Theo báo cáo của Hội đồng Bầu cử quốc gia, cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV, năm 2016 như sau: Tổng số cử tri đủ điều kiện bầu cử là 67.485.482 người, trong đó số cử tri đã tham gia bỏ phiếu là 67.049.091 người, đạt tỷ lệ 99,35%. Cơ cấu (kết hợp) như sau: Đại biểu là người dân tộc thiểu số: 86 người (đạt 17,30%); phụ nữ: 133 người (đạt 26,80%); đại biểu là người ngoài Đảng có 21 người (đạt 4,20%)… Như vậy có thể nói cuộc bầu cử ĐBQH được nhân dân ta đặc biệt quan tâm; cơ cấu đại biểu toàn diện bao gồm cả người ngoài Đảng; các cơ quan chức năng chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc nhằm bảo đảm kết quả đúng với đánh giá của cử tri.
Tỷ lệ đại biểu là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cao chỉ chứng tỏ là uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam rất cao trong nhân dân Việt Nam. Và do đó, việc những người ngoài Đảng ứng cử, nhưng không trúng cử cũng là điều dễ hiểu. Còn nhớ, trong cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV, một tiến sĩ khoa học từng có nhiều bài viết trên mạng “phản biện” chế độ xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được nhiều “người bất đồng chính kiến” đề cao nên tự tin tự ứng cử. Song hội nghị cử tri (theo luật định) tại địa phương đã bỏ phiếu với kết quả 6/75. Kết cục ứng cử viên này đã bị loại.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam trong thời gian qua, nhất là từ sau Hiến pháp 2013 có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp tiến hành. Về nội dung, pháp luật Việt Nam ngày nay không thể “sao chép” theo tư duy cũ mà phải bảo đảm đúng với quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước và tinh thần Hiến pháp 2013, trong đó bảo đảm các nguyên tắc: Pháp luật là tối thượng; kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thực tế xã hội-tâm tư nguyện vọng của nhân dân và bảo đảm quyền con người. Hoạt động lập pháp ngày nay cũng phải kịp thời thể chế hóa nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động lập pháp cũng gắn liền với đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương cũng như các cơ quan tư pháp. Một trong những đổi mới của Quốc hội khóa XIV là tăng số lượng đại biểu chuyên trách. Trong hoàn cảnh của Việt Nam, theo Luật Tổ chức Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 1-1-2016), ĐBQH gồm: Đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm. Đại biểu chuyên trách dành toàn bộ thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình; đại biểu kiêm nhiệm dành 30% thời gian cho hoạt động của Quốc hội. Theo đó, cơ cấu Quốc hội khóa XIV có 114 đại biểu chuyên trách Trung ương (thuộc các cơ quan của Quốc hội) và 67 đại biểu chuyên trách địa phương, còn lại là đại biểu kiêm nhiệm.
Giám sát đang là một hoạt động được tăng cường, nhất là trong khóa XIV. Hoạt động giám sát hiện nay tập trung vào việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, tình trạng ô nhiễm môi trường, quản lý đất đai… Tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội đã biểu quyết, năm 2020 thực hiện giám sát chuyên đề “Thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”. Đây là một trong những vấn đề mà cử tri đang bức xúc.
Sinh hoạt của Quốc hội Việt Nam đã và đang đổi mới theo hướng dân chủ-thẳng thắn; phản ánh sát, cập nhật những vấn đề-kể cả vụ việc đang diễn ra mà cử tri quan tâm. Ví dụ, tại Kỳ họp thứ bảy, trước khi thông qua dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia các ĐBQH đã có cuộc trao đổi rất cởi mở về việc có nên quy định cấm người điều khiển phương tiện giao thông sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông hay không? Kết quả quy định này đã được thông qua với 374/446 (chiếm 77,27% tổng số đại biểu).
Sở dĩ các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội tập trung công kích Quốc hội Việt Nam thật không có gì khó hiểu. Đây là thủ đoạn nằm trong chiến lược chống phá Việt Nam toàn diện-từ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đến toàn bộ hệ thống chính trị các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, thực hiện âm mưu xuyên tạc, bôi nhọ cơ quan này, các thế lực thù địch hy vọng sẽ làm giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ xã hội, dần dần tiến tới chuyển hóa chế độ XHCN ở Việt Nam

PHÒNG, CHỐNG "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" PHẢI TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG


Tích cực, chủ động trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", mục đích là nhằm khắc phục tư tưởng thụ động, chờ đợi, dựa vào cấp trên, các tổ chức, các lực lượng khác, khắc phục đấu tranh kiểu nửa vời, mang tính thời vụ, hình thức, đối phó, không ráo riết, không quyết liệt, làm cầm chừng. "Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là trạng thái, quá trình diễn biến từ bên trong mỗi con người, mỗi tổ chức theo hướng tiêu cực. Vì vậy nếu không tích cực, chủ động và kiên quyết ngăn chặn, khắc phục kịp thời thì có thể dẫn đến phai nhạt bản chất cách mạng của họ và trượt sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. "Tự diễn biến", "tự chuyển hóa” là quá trình mà bản chất cách mạng của mỗi con người, mỗi tổ chức bị bào mòn dần, phai nhạt dần phẩm chất cộng sản, xa dần những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội rồi biến chất. "Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" không phải là quá trình đột biến tức thì mà là một quá trình tích tụ dần dần, "tích lượng thành chất", "tích tiểu thành đại", từ ít đến nhiều, từ nhỏ đến lớn, rất phức tạp, khó nhận biết và rất khó đấu tranh, khắc phục. Vì vậy, để ngăn chặn, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì phải tích cực, chủ động và kiên quyết.
Tích cực phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" để tạo ra khả năng đề kháng và khả năng tự bảo vệ, chống lại sự biến chất của mỗi người và mỗi tổ chức. V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”. Vì thế mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần biết tự bảo vệ mình, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, tình cảm và lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị trước những tác động của tình hình, phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong mọi lúc, mọi nơi. Không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh mà vô tình hay cố ý rơi vào "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, biến chất, từ bỏ, dẫn đến chống đối con đường cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Chủ động trong đấu tranh, phê phán nghĩa là phải luôn tìm hiểu, nhận thức rõ được từng mức độ biểu hiện ở mỗi đối tượng, chủ thể biểu hiện và nguyên nhân của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" để đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, có biện pháp khắc phục phù hợp, hiệu quả. Thực hiện giáo dục, tự giáo dục, tự rèn luyện, tự phê bình và phê bình, nhất là trong nội bộ Đảng bao gồm cả những biện pháp về tư tưởng, chính trị, tổ chức, kinh tế và pháp luật.
Hiện nay công tác phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đang được các tổ chức, cơ quan, đơn vị thực hiện theo đúng tư tưởng chỉ đạo trên và đã bước đầu thu được những kết quả trên thực tế. Tuy nhiên, việc phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là việc đấu tranh tư tưởng, chuyển hóa nhận thức của con người nên rất phức tạp, đòi hỏi mỗi chúng ta và mỗi tập thể phải có quyết tâm, biện pháp tích cực, sáng tạo hơn nữa thì hiệu quả thu được mới cao và thiết thực.

PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH GIÚP CHÚNG TA TỐT HƠN MỖI NGÀY


Hồ Chủ tịch, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam; người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại của Người gắn liền với lịch sử quang vinh của dân tộc và của Đảng ta. Tuy Người đã đi xa nhưng tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chủ tịch vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là những chuẩn mực để các thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo; đặc biệt quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Phong cách Hồ Chí Minh là một lĩnh vực rất rộng lớn, bao gồm: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thắm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương ...
Trong những phong cách tiêu biểu của Người, phong cách nói đi đôi với làm là nét đặc sắc và có giá trị lý luận, thực tiễn thiết thực. Phong cách này đcượ hình thành từ tư chất, đạo đức và trí tuệ của Người; đồng thời, đó cũng là sự hội tụ và lan tỏa của truyền thống nhân văn, nhân ái, trọng chữ tín, sống có trước có sau của dân tộc Việt Nam.
Có thể nói, theo quan niệm của Bác, phong cách “nói đi đôi với làm” không chỉ là phong cách mà còn là nguyên tắc đầu tiên trong ba nguyên tắc đạo đức cách mạng: nói thì phải làm, xây đi cùng với chống và tu dưỡng đạo đức suốt đời. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, coi đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng. Bản thân Người là tấm gương sáng ngời về nói đi đôi với làm.
Trong bài giảng “Tư cách một người cách mệnh” trong tác phẩm Đương Cách mệnh. Bác viết:
“Tự mình phải: Cần kiệm.
Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kêu ngạo.
Nói thì phải làm”[1].
“Nói thì phải làm” là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối với mỗi người, để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm phải có nhận thức đúng và quyết tâm vượt qua chính mình. Có nhận thức đúng nhưng không vượt qua được sự cám dỗ của lợi ích sẽ dẫn đến nói không đi đôi với làm.
Để nói đi đôi với làm, còn cần có sự cố gắng, bền bỉ và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được.
Nói đi đôi với làm thể hiện bằng công việc, với kêt quả cụ thể. Kết quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo thì lời nói đi đôi với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo.
Nói đi đôi với làm còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên, công chức, nêu gương trước nhân dân. Trong thực hành đạo đức “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Theo Người, về bản chất “nói đi đôi với làm” không chỉ là nguyên tắc đạo đức, lẽ sống, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người.
Tư tưởng của Người về “nói đi đôi với làm” được thể hiện ở 3 vấn đề sau:
Một là, nói phải đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không được xuyên tạc, nói sai. Cán bộ, đảng viên phải nắm vững đường lối cách mạng của Đảng trong toàn bộ tiến trình cách mạng và được cụ thể hóa trong từng giai đoạn. Nắm vững đường lối cách mạng để thực hiện cho đúng, để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm theo cho đúng. Phải rèn luyện bản lĩnh vững vàng để có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, dù trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo, trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng xã hội tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, nói đi đôi với làm, không được “nói một đàng làm một nẻo”. Theo Bác, lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Khi đề ra công việc, phải tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu. Khi nói cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Cán bộ phải nói đi đôi với làm, nói trước làm trước. Không được nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm.
Ba là, không được hứa mà không làm. Lời hứa chỉ có giá trị khi đi liền với việc làm cụ thể. “Làm” ở đây chính là hành động, là hoạt động thực tiễn, là tổ chức thực hiện; đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, từ việc nhỏ đến việc lớn mang ý nghĩa thiết thực.
Đối với Đảng ta, Hồ Chí Minh yêu cầu “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 281.

CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH CỦA PHẠM TRẦN


Gần đây, trên nhiều diễn đàn phản động đã xuất hiện bài viết Tư duy đất sét Nguyễn Phú Trọng của Phạm Trần. Xuyên suốt bài viết, Phạm Trần đã trắng trợn xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, hạ uy tín của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Mục đích nhằm “tạo hiệu ứng” cổ súy cho những hoạt động chống phá của “đồng bọn” hướng vào công tác chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

ÂM MƯU VÀ THỦ ĐOẠN ĐÊ HÈN CỦA NGUYỄN TIẾN DÂN TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII


Như một vấn đề có tính quy luật là cứ mỗi khi đất nước sắp có những sự kiện trọng đại diễn ra, thì các thế lực thù địch, phản động lại điên cuồng chống phá Đảng, chống phá cách mạng nước bằng nhiều âm mưu thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, trước thềm Đại hội lần thứ XIII của Đảng, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức chuẩn bị mọi mặt để tiến tới tổ chức sự kiện quan trọng này, thì các thế lực thù địch, chống cộng lại càng ráo riết gia tăng các hoạt động chống phá Đảng ta. Mới đây, trên trang danlambao Nguyễn Tiến Dân lại đăng tải bài “Chính trường Việt Nam sẽ ra sao, khi khuyết Trọng?”. Toàn bộ nội dung bài báo đã thể hiện rõ tâm địa xấu xa của kẻ thù địch, phản động đang cố gắng gượng để chống phá công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại Hội XIII của Đảng. Vẫn những thủ đoạn bới móc, xuyên tạc đời tư, bôi nhọ thanh danh, uy tín của các lãnh tụ của Đảng, Nguyễn Tiến Dân tiếp tục diễn lại những chiêu trò đã cũ rích mà bất kỳ một người cộng sản hay một người dân lương thiện nào chỉ cần đọc qua cũng hiểu rõ tâm địa xấu xa, phản động của Nguyễn Tiến Dân và đồng bọn của hắn. Vậy, sự thực thì sao:

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG – SỰ HƯ HỎNG VỀ NHÂN CÁCH CỦA MỘT VỊ GIÁO SƯ


Quá bận việc, nay mới có dịp “dạo chơi” trên mạng để xem cộng đồng luận gì về thế sự. Nhưng hôm nay tôi quả là giật mình, khi đọc bài TRAO ĐỔI VỀ ĐẠI HỘI 13 CỦA ĐCSVN của Giáo sư Nguyễn Đình Cống, nguyên là nhà giáo của Trường Đại học Xây dựng, một nhà khoa học khá nổi tiếng với những công trình khoa học về kết cấu xây dựng. Tôi biết đến ông Cống cũng rất tự nhiên, vì nhà tôi có chú em từng là sinh viên của Trường Đại học Xây dựng, thường nghiên cứu nhiều sách về chuyên ngành xây dựng, trong đó có những cuốn sách của ông.
Chuyện về xây dựng, thì tôi không thạo lắm, nhưng cũng kính nể Giáo sư Cống theo những lời khen ngợi của đám bạn thằng em tôi khi đọc sách về chuyên ngành xây dựng của thầy. Song quả thật, nếu thầy chuyên tu về ngành xây dựng thì đời sẽ vinh hiển, được nhiều người quý mến, tôn trọng hơn. Nhưng khi nói sang chuyện chính trị, thì tôi thấy ông Cống không còn đáng kính nữa. Bởi triết lý về sự nghiệp của cuộc đời, có lẽ ông Cống đã là Giáo sư thì không để phải “trò” dạy lại “thầy” cái chữ đã được đúc kết trong thành ngữ của người Việt ta rằng: “Một nghề thì sống, đống nghề thì chết”, hay “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”… Quả thật là bất kính khi phải đọc lại từng chữ này cho Giáo sư hiểu.
Nhưng ông Cống thứ lỗi cho, đời nó là vậy, bởi không ai có thể tự cho mình làm thầy của thiên hạ suốt cuộc đời; lúc này mình là thấy, còn lúc khác mình tất yếu là trò. Nếu đọc từng câu chữ trong bài viết trên của ông, thì thấy thật đáng tiếc cho ai đã giới thiệu cho ông vào Đảng, và cũng thật buồn phiền cho Đảng, Nhà nước, chế độ và nhân dân ta đã mất toi công “nuôi dưỡng ông từ lúc ấu thơ, chăm bẵm, bú mớm” cho ông nên người dưới mài trường xã hội chủ nghĩa, những mái trường mang tên các danh nhân, chí sĩ yêu nước nổi tiếng một thời như: Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và cả trường Đại học Xây dựng Khác-cốp ở Liên Xô nữa – một nhà nước xã hội chủ nghĩa chính hiệu của chủ nghĩa xã hội thời đó… Ông được ăn học, nuôi dạy đầy đủ, chẳng thiếu thứ gì, giữa cảnh bao người con đất Việt đến tuổi như ông lại phải xông pha ngoài trận tuyến theo tiếng gọi cứu nước của non sông, của Bác Hồ và của Đảng mà ra mặt trận, chiến đấu hy sinh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước hại dân… Vậy mà ông đòi bỏ ngôi nhà xã hội chủ nghĩa đó đi?!
Ông từ bỏ Đảng à? Đó là việc của ông. Không có ông thì còn bao nhiêu người khác nối tiếp cái sự nghiệp tự do, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội này, sự nghiệp đã được lớp lớp những người con thân yêu, cống hiến hy sinh quên mình cho Tổ quốc trước đây cũng như hiện nay bước tiếp. Mới vẻn vẹn có 31 năm tuổi Đảng, với một cuộc sống chẳng biết gì đến mùi thuốc súng của bão lừa chiến tranh, đau thương, hy sinh mất mát, hay một chút gian lao, khó nhọc nào của người công nhân trong nhà máy, của người nông dân trên đồng ruộng, mà ông đòi đối thoại với Đảng à? Ông lại giở chiêu kích tướng “Đảng không dám đối thoại” về Đại hội XIII! Ông có tư cách gì, nhân cách nào mà để Đảng đối thoại với ông, khi đòi Đảng phải thay tên đổi họ, đòi nước phải thay tên đổi hiệu.
Tiếc thay cho cái “thân già da cóc đến khắm khú” của ông như một học trò đã viết về ông. Ông đã không tránh khỏi vết xe đổ của mấy kẻ bất mãn chế độ, mấy tay dân chủ giả hiệu, bị lừa phỉnh mà phí phạm cuộc đời, tự sỉ vả, “phóng uế” vào công danh, sự nghiệp khó nhọc theo đuổi hoài bão ước mơ về những công trình xây dựng của mình… Nhưng cũng nhắc để ông biết, Đảng, Nhà nước, nhân dân cho ông ăn học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân, xây nên những ngôi nhà của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của hạnh phúc ấm no cho dân, chứ không phải để xây nên mấy ngôi nhà hoang của những kẻ dân chủ giả hiệu, mà bản chất là phản dân, hại nước, lúc nào cũng tung ra và nêu lên những giọng điệu tự do ngôn luận, tự do báo chí, hay đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, đòi từ bỏ độc đảng, thiết lập đa đảng… để lòe bịp ít người còn chưa có điều kiện học tập nâng cao nhận thức…
Cái hư hỏng của ông Cống, không phải ở các tri thức khoa học về kết cấu xây dựng, mà là ở cái sự hư hỏng về kết cấu nhân cách làm người, cách ứng xử với con người, chế độ, nhà nước và nhân dân đã nuôi dưỡng ông thành tài, thành danh. Đó còn là cái hư hỏng của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, thay đổi lập trường quan điểm, từ kẻ bất mãn, trở thành kẻ trở cờ, phản bội lại sự nghiệp của Đảng, lợi ích của nhân dân, của dân tộc, khiến cho băng hoại cái nhân cách của người thầy, của một nhà khoa học.
Nhà hỏng có thể xây lại được, có đúng không Giáo sư kết cấu xây dựng Nguyễn Đình Cống? Nhưng sự hư hỏng về nhân cách thì liệu có công trình khoa học nào của ông có thể ứng dụng sửa chữa được? Theo tôi, chỉ có cuộc đời mới dạy được cho cách sửa chữa. Con đường chân chính nhất là phải quay trở về với tiếng gọi phục vụ sự nghiệp vĩ đại của nhân dân ta trên con đường tiến lên xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.