Tăng cường xây dựng
đạo đức công vụ (ĐĐCV) ở Việt Nam hiện nay có vai trò quan trọng, góp phần xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng ĐĐCV thực chất là đưa văn hóa vào trong chính trị cũng như làm cho văn
hóa (cốt lõi là đạo đức) lan tỏa, thấm sâu trong các quan hệ và hoạt động công
vụ, từ đó làm cho việc sử dụng quyền lực và hoạt động công vụ thật sự vì lợi ích
của nhân dân. Bài viết phân tích sự cần thiết của việc tăng cường xây dựng
ĐĐCV; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng ĐĐCV ở Việt Nam hiện
nay.
1. Sự cần thiết của việc xây dựng đạo đức công vụ ở nước
ta
Nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của xây dựng văn hóa
công vụ (trong đó cốt lõi là đạo đức công vụ), Văn kiện Đại hội XII của Đảng
chỉ rõ: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây
dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là
nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(1).
Có nhiều quan niệm về đạo đức công vụ, nhưng có thể hiểu
ĐĐCV là đạo đức của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Đó là những giá
trị, chuẩn mực, tiêu chuẩn mà cán bộ, công chức cần phải tuân thủ trong quá
trình thực thi nhiệm vụ nhằm duy trì và thực hiện tốt lợi ích công, đó là:
Một là, phục vụ nhân dân (hay còn gọi là phục vụ
công). Hoạt động chính trị, hoạt động công vụ của tổ chức và cá nhân (cán bộ,
công chức) cần phải hướng đến mục tiêu, mục đích duy nhất là không ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân: “hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu
phấn đấu. Không làm bất cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân
dân”(2).
Hai là, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết. Lợi
ích công là lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, “chí công vô tư”; “dĩ công vi thượng” là yêu cầu đặt lợi ích công lên
trên hết, trước hết. Việc thực thi công vụ cần chống và khắc phục các biểu hiện
đi ngược với lợi ích công, như: hiện tượng “lợi ích nhóm”; “lợi ích cục bộ” và
chủ nghĩa cá nhân (tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục
lợi).
Ba là, trách nhiệm công gồm các trách nhiệm chính
trị; trách nhiệm pháp luật; trách nhiệm hành chính và trách nhiệm nêu gương về
đạo đức. Trách nhiệm chính trị là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân
dân; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc; kịp thời giải quyết những yêu cầu và
nhu cầu hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Trách nhiệm pháp luật có nghĩa là
phải tuân thủ đầy đủ và nghiêm túc quy định của pháp luật trong thực thi công
vụ; đồng thời gánh chịu hậu quả pháp lý nếu có hành vi trái pháp luật. Trách
nhiệm hành chính là luôn quan tâm đến việc nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả trong thực thi công vụ. Trách nhiệm nêu gương về đạo đức chính là
gương mẫu về đạo đức và lối sống cả trong gia đình và ngoài xã hội; làm gương
về đạo đức cho xã hội.
Bốn là, công bằng trong thực thi công vụ. Có nghĩa là
cần công bằng trong thực thi công vụ, không phân biệt đối xử, cần nỗ lực để làm
cho tất cả mọi người đều có thể tham gia vào tiến trình phát triển và thụ hưởng
thành quả của phát triển.
Năm là, luôn có ý thức sử dụng hợp lý, tiết kiệm và
hiệu quả nguồn lực công. Nói cách khác, người thực thi công vụ cần coi tài sản,
nguồn lực của nhà nước, của tập thể như tài sản và nguồn lực của bản thân mình,
gia đình mình, khắc phục hiện tượng: “Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây
lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài
nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; chi tiêu
công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời
gian lao động”(3).
Sáu là, dân chủ. Cán bộ, công chức cần thực hiện công
khai thông tin để đảm bảo “quyền được biết” của công dân, cũng như khích lệ sự
tham gia của công dân, biết lắng nghe, đối thoại với nhân dân; không dân chủ
hình thức, không độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
Việc tăng cường xây dựng đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay
là cấp bách và rất cần thiết, xuất phát từ những lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ tầm quan trọng của đạo đức
công vụ trong việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đạo đức chính trị, đạo đức
công vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người coi đạo đức của người cán bộ, đảng
viên như nguồn của suối, gốc của cây. Đạo đức công vụ quan trọng, vì: (i) tổ
chức công và cán bộ, công chức là người sử dụng quyền lực công, phân phối lợi
ích công, hoạt động công vụ nên ảnh hưởng rộng rãi đến lợi ích và cuộc sống của
người dân. Do đó, nếu việc thực thi công vụ dựa trên các chuẩn mực đạo đức thì
sẽ ảnh hưởng tích cực đến lợi ích và cuộc sống của nhiều người dân. Ngược lại,
việc thực thi công vụ không dựa trên các chuẩn mực đạo đức sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến cuộc sống của nhiều người dân. (ii) đạo đức công vụ thực hiện chức năng
điều chỉnh và kiểm soát hành vi mà pháp luật và cơ chế dân chủ không thể thực
hiện được. Trong thực thi công vụ, pháp luật và cơ chế dân chủ có vai trò quan
trọng trong việc chế ước và kiểm soát hành vi của đội ngũ cán bộ, công chức.
Tuy nhiên, điều này mới chỉ là điều kiện “cần” mà chưa phải là điều kiện “đủ”.
Điều kiện đủ chính là lương tâm, đạo đức của người thực thi công vụ. Bởi vì,
khi đạo đức công vụ thật sự là một thành tố nằm trong tâm trí của cán bộ, công
chức, thì nó sẽ tạo ra một sức mạnh nội sinh thúc đẩy người thực thi công vụ
khi có sự giằng xé giữa lợi ích tư và lợi ích công có thể đưa ra được sự lựa
chọn hành vi có lợi cho lợi ích công. Vì thế, sự tự giác về mặt đạo đức của
người cán bộ, công chức góp phần ngăn ngừa một số hiện tượng tiêu cực trong
thực thi pháp luật. (iii) đạo đức công vụ là yếu tố then chốt bảo đảm hiệu quả
thực thi công vụ. Tác dụng quyết định của đạo đức công vụ đối với hiệu quả thực
thi công vụ thể hiện ở hai khía cạnh:(4) Một là, tiết kiệm chi phí giao dịch.
Trong hoạt động công vụ, chi phí giao dịch được hiểu là những chi phí phát sinh
khi các cơ quan hoặc chủ thể thực thi công vụ thực hiện việc huy động nguồn
lực, thực thi chính sách và cung ứng dịch vụ công. Thực thi công vụ dựa trên
các chuẩn mực đạo đức sẽ góp phần hạ thấp chi phí thông tin, chi phí hoạch định
chính sách, chi phí thực thi và chi phí giám sát; đồng thời có tác dụng khắc
phục một số thiếu sót dẫn đến sự lãng phí. Việc thực thi công vụ dựa trên các
chuẩn mực đạo đức sẽ có được niềm tin nhiều hơn từ phía người dân, vì thế càng
có khả năng nhận được sự ủng hộ và hợp tác của người dân. Hai là, tiết kiệm chi
phí chuyển hóa nguồn lực. Ở một nghĩa nào đó, thực thi công vụ chính là quá
trình chủ thể thực thi công vụ chuyển hóa nhân lực, vật lực, tài lực và thông
tin nhằm cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Đạo đức công vụ sẽ góp phần hạn chế
sự hao tổn về nguồn lực trong quá trình này, từ đó nâng cao hiệu quả phục vụ
công. Nếu thiếu đạo đức công vụ sẽ dẫn đến lạm dụng chức quyền, thiếu trách
nhiệm, trục lợi và tham nhũng trong quá trình phục vụ công, từ đó ảnh hưởng
tiêu cực đến chất lượng và hiệu quả phục vụ công.
Thứ hai, xuất phát từ thực trạng đạo đức công vụ ở
nước ta hiện nay. Trong công cuộc đổi mới, trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng đạo đức và nhằm khắc phục, hạn chế một số yếu kém trong
đạo đức công vụ, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng việc xây dựng đạo đức công vụ.
Chủ trương xây dựng văn hóa trong chính trị, cũng như coi xây dựng Đảng về đạo
đức với tư cách là một trong các nội dung của công tác xây dựng Đảng đã
cho thấy nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của đạo đức công vụ và xây dựng
đạo đức công vụ. Do công tác xây dựng đạo đức công vụ từng bước được coi trọng
nên đạo đức công vụ ở nước ta có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm, đạo đức công vụ ở nước ta còn một số hạn chế, yếu kém: “Tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức
tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số
đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(5).
Nhìn từ chuẩn mực phục vụ nhân dân, vẫn còn một bộ phận cán
bộ, công chức chưa thật sự phục vụ nhân dân; lấy sự “giàu có của gia đình và
bản thân làm mục tiêu phấn đấu” mà “chưa lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng
của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Nhìn từ chuẩn mực lợi ích công, vẫn còn một bộ phận cán bộ,
công chức chưa đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc lên trên
hết, trước hết; “cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ
lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; tham ô, tham
nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác
để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao
che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; sử dụng quyền lực được giao để phục vụ
lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của
mình để trục lợi(6) .
Nhìn từ chuẩn mực trách nhiệm công, vẫn còn một bộ phận cán
bộ, công chức quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ,
vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng
của nhân dân; vẫn còn hiện tượng có ý làm trái các quy định của pháp luật
trong thực thi công vụ; bảo thủ, trì trệ, thiếu năng động, sáng tạo; ngại tìm
tòi, đổi mới; năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc còn thấp; một số cán
bộ, công chức chưa gương mẫu về đạo đức và lối sống với các biểu hiện như:
sống, sinh hoạt, tiêu dùng, giải trí xa hoa, lãng phí; “đánh bạc, rượu chè bê
tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa
vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội”(7).
Nhìn từ chuẩn mực công bằng trong thực thi công vụ. Đại hội
XII chỉ rõ: “Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa
được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới”(8). Trong
thực tiễn thực thi công vụ, vẫn còn tình trạng thiên vị, ưu ái cho một số doanh
nghiệp, chưa tạo cơ hội bình đẳng và công bằng cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế; vẫn còn biểu hiện phân biệt đối xử, hiện tượng có “bôi
trơn” thì được ưu ái và tạo thuận lợi trong giải quyết công việc, còn người
“không quen”, không có “bôi trơn” thì gây khó dễ trong cung ứng dịch vụ vẫn còn
tồn tại ở một số nơi. Nhìn từ chuẩn mực sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả
nguồn lực công, vẫn còn tình trạng “quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng
phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...;
đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; chi tiêu công quỹ tùy
tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao
động”(9).
Nhìn từ chuẩn mực dân chủ, một số cơ quan và cán bộ, công
chức “chưa coi trọng việc thực hiện công khai, minh bạch để đảm bảo “quyền được
biết” của đảng viên và nhân dân cũng như phát huy vai trò giám sát trong tổ
chức Đảng và nhân dân; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, dân chủ hình thức;
độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, quan liêu, thiếu dân chủ trong chỉ đạo,
điều hành”(10), “định kiến với người góp ý, phê bình”(11).
Thứ ba, xuất phát từ đổi mới và phát triển trong bối
cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Xây dựng, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
là phương hướng lớn trong xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những tác
động tích cực, kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế cũng có những
tác động tiêu cực đến lĩnh vực văn hóa, đạo đức ở nước ta. Kinh tế thị trường
là cơ chế kinh tế làm cho việc phân bổ các nguồn lực phát triển trở nên hiệu
quả hơn, nhưng dễ làm con người tuyệt đối hóa giá trị đồng tiền, từ đó hình
thành chủ nghĩa “sùng bái đồng tiền”; quan hệ giá trị - tiền tệ rất dễ thâm
nhập vào các quan hệ và hoạt động của khu vực công, từ đó, làm suy yếu các giá
trị cơ bản của đạo đức công vụ. Cho nên, để hạn chế tác động mặt trái này càng
cần phải coi trọng việc xây dựng ĐĐCV. Tương tự như kinh tế thị trường, quá
trình hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa tạo điều kiện để chúng ta
tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiến phục vụ cho
mục tiêu phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc thực hiện “mở” với bên ngoài
cũng tạo cơ hội để chủ nghĩa cá nhân về đạo đức (12) thâm nhập làm xói mòn các
giá trị đạo đức, như: chủ nghĩa tập thể, lợi ích tập thể, lợi ích chung trong
các quan hệ xã hội, cũng như trong hoạt động của khu vực công. Trong bối cảnh
này, càng cần phải coi trọng việc xây dựng ĐĐCV.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường xây dựng đạo đức công
vụ ở nước ta
Để tăng cường xây dựng ĐĐCV ở nước ta hiện nay, bên cạnh
việc coi trọng sự tự giác rèn luyện và thực hành ĐĐCV của bản thân mỗi cán bộ,
công chức, cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận để xác lập hệ thống chuẩn mực, giá trị đạo đức công vụ. Yêu cầu về xây
dựng văn hóa, đạo đức, trong đó có xây dựng đạo đức công vụ đang đặt ra nhu cầu
bức thiết đối với việc xác lập hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa và đạo đức ở
nước ta hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng đạo đức công vụ hiện nay, cần
khẩn trương tổng kết và nghiên cứu để xác lập hệ thống chuẩn mực, giá trị về
đạo đức công vụ. Nghiên cứu thực tiễn của nhiều quốc gia cho thấy, tuy mỗi nước
đề ra chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau về đạo đức công vụ, song những giá trị,
chuẩn mực sau đều được hầu hết các nước nhấn mạnh và thừa nhận, đó là: i) phục
vụ công (phục vụ nhân dân); ii) lợi ích công; iii) trách nhiệm công (gồm trách
nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp luật, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm
nêu gương về đạo đức); iv) công bằng xã hội; v) sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn
lực công; vi) công khai, minh bạch và phát huy dân chủ.
Thứ hai, làm cho hệ thống thể chế thể hiện đầy
đủ các chuẩn mực, giá trị đạo đức. Max Weber cho rằng: “mọi người tin tưởng vào
thể chế không phải là tin tưởng vào bản thân thể chế, mà là tin tưởng vào định
hướng giá trị đạo đức của thế chế đó”(13). Từ quan điểm này của Max Weber ta
thấy, con đường hiệu quả nhất để xây dựng ĐĐCV chính là nỗ lực để làm cho hệ
thống thể chế (theo nghĩa hẹp) thật sự phản ánh và thể hiện đầy đủ các
giá trị đạo đức tốt đẹp. Hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức phần
nhiều là hoạt động thực thi thể chế. Do đó, nếu thể chế thể hiện đầy đủ các giá
trị đạo đức thì có tác dụng khơi dậy tình cảm đạo đức và thúc đẩy hành vi đạo
đức của cán bộ, công chức.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đạo
đức công vụ. Thông qua pháp luật để xác lập các chuẩn mực của đạo đức công vụ
và thúc đẩy việc thực hành đạo đức công vụ là một phương diện không thể thiếu
trong xây dựng đạo đức công vụ. Đến nay, nhiều nước trên thế giới (điển hình là
các nước OECD) đã ban hành Luật đạo đức công vụ. Ở Nhật Bản, đạo đức công vụ đã
được thể chế hóa trong Luật Đạo đức công chức nhà nước và Quy định về đạo đức
công chức nhà nước. Ở Anh, đạo đức công vụ được quy định trong “Luật phòng
chống tham nhũng”, “Tiêu chuẩn hành vi của công chức hành chính cấp địa
phương”. Tại Canada, đạo đức công vụ được quy định trong “Luật đạo đức chính
phủ Canada”, “Luật về xung đột lợi ích”, “Tiêu chuẩn hành vi trong phục vụ
công”... Ở nước ta hiện nay, các chuẩn mực và yêu cầu về đạo đức công vụ đã
được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, như Hiến pháp năm 2013; Luật Cán
bộ, công chức; Luật Viên chức; Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018...
Tuy nhiên, nước ta vẫn chưa xây dựng được một luật riêng quy định về đạo đức
công vụ. Do đó, để đáp ứng yêu cầu về tăng cường xây dựng ĐĐCV trong bối cảnh
mới hiện nay, cần nghiên cứu để xây dựng và ban hành Luật đạo đức công vụ hay
Luật đạo đức của công chức. Việc ban hành luật này không những có tác dụng nêu
lên các nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức công vụ, mà còn đưa ra những quy định
cụ thể về mục đích đạo đức, hành vi đạo đức và công cụ đạo đức trong quá trình
cán bộ, công chức tiếp xúc, làm việc với cơ quan, xã hội, doanh nghiệp và cá
nhân công dân. Hơn nữa, việc ban hành luật này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động giám sát việc thực thi đạo đức công vụ trong hệ thống chính trị.
Thứ tư, tăng cường giáo dục đạo đức công vụ cho
đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở hình thành cơ quan chuyên trách về đào
tạo, bồi dưỡng đạo đức công vụ và đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức công vụ.
Giáo dục đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức là quá trình làm cho cán
bộ, công chức hiểu được các giá trị của đạo đức công vụ và tiêu chuẩn hành vi
trong thực thi công vụ, qua đó khơi dậy động cơ đạo đức và thúc đẩy hành vi đạo
đức của cán bộ, công chức. Cốt lõi của giáo dục đạo đức công vụ là làm cho cán
bộ, công chức hiểu được vai trò và nghĩa vụ của mình, hiểu được giá trị và ý
nghĩa của công việc mà bản thân mình đang thực hiện; nắm được các tiêu chuẩn
hành vi trong thực thi công vụ. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới (điển hình
là các nước OECD) đều đã thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đào
tạo, bồi dưỡng về đạo đức công vụ. Cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm chính trong
việc thiết kế chương trình đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức công vụ; tổ chức các
khóa đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cho các đối tượng khác nhau; xây dựng cẩm nang
hướng dẫn về đạo đức công vụ. Việc đào tạo, bồi dưỡng không nặng về lý thuyết,
coi trọng hơn việc hướng dẫn thực hành đạo đức công vụ cho người học; giúp cho
người học có khả năng đưa ra lựa chọn hợp lý trong bối cảnh có sự xung đột giữa
lợi ích tư và lợi ích công.
Thứ năm, coi trọng phát huy tính tự chủ của cán
bộ, công chức và thực hành dân chủ rộng rãi trong cơ quan, đơn vị. Tocqueville
cho rằng: “việc hình thành đạo đức công tốt đẹp không phải chủ yếu là nghe
giảng ở trên lớp, cũng không phải là những thuyết giáo trống rỗng, mà là thông
qua sự tham gia chính trị thực tế để có được tri thức về chính trị, hình thành
nên kỹ năng chính trị, từ đó tạo ra đạo đức công tốt đẹp”(14). Chính vì lẽ đó,
người đứng đầu các cơ quan, đơn vị cần tin tưởng đội ngũ cán bộ, công chức, coi
trọng phát huy tính năng động, sáng tạo của họ trong hoạt động thực thi công
vụ, phát huy năng lực tự quản, tự kiểm soát, tự chủ của đội ngũ cán bộ, công chức
trong quá trình giải quyết những công việc có liên quan. Lãnh đạo cơ quan, đơn
vị cần khích lệ đội ngũ cán bộ, công chức tham gia vào quá trình xây dựng và
ban hành các quyết định quan trọng của tổ chức, tôn trọng và tiếp thu những ý
kiến hợp lý của cán bộ, công chức. Tổ chức công cần cổ vũ ý thức đổi mới và bồi
dưỡng năng lực đổi mới cho cán bộ, công chức; tạo không khí tin tưởng, hợp tác
và đổi mới trong tổ chức. Thông qua việc chia sẻ thông tin, quyền ban hành
quyết định và cùng gánh vác trách nhiệm để góp phần phát triển nhân cách của
cán bộ, công chức. Việc công chức tham gia dân chủ vào quá trình ban hành các
quyết định quan trọng của tổ chức cũng là cách để mỗi cán bộ, công chức khẳng
định giá trị của bản thân, góp phần thực hiện sự thống nhất giữa giá trị cá thể
và giá trị chung.
Thứ sáu, thực hiện công khai, minh bạch trong
hoạt động công vụ; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát. Công
khai, minh bạch trong hoạt động công vụ với xây dựng đạo đức công vụ có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Việc thực hiện công khai, minh bạch vừa là một
chuẩn mực về đạo đức công vụ, vừa là phương thức để nhận diện, phát hiện, ngăn
ngừa các biểu hiện suy thoái về đạo đức công vụ. Bởi vì, “chỉ có công khai
thông tin mới tạo cơ sở cho các tổ chức xã hội, báo chí và người dân phát huy
vai trò trong ngăn chặn xung đột lợi ích và tham nhũng, áp lực của công chúng
còn làm cho nhà nước tập trung giải quyết vấn đề xung đột lợi ích và tham
nhũng”(15). Đi liền với việc thực hiện công khai, minh bạch, cần phát huy sức
mạnh tổng hợp của các kênh thanh tra, kiểm tra, giám sát, nhất là phát huy mạnh
mẽ vai trò giám sát của báo chí, các tổ chức xã hội và người dân trong hoạt
động công vụ và trong thực hành đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ bảy, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ
lãnh đạo và người đứng đầu. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của
nêu gương trong xây dựng đạo đức cách mạng. Người cho rằng, đối với các dân tộc
phương Đông thì “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền”.(16) Trong thực tiễn, ở đâu đó việc thực hiện đạo đức công vụ còn
chưa đạt yêu cầu đề ra là do một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu chưa thực
hiện tốt trách nhiệm nêu gương, còn có biểu hiện “nói nhiều, làm ít”; “nói một
đằng, làm một nẻo”, “nói mà không làm”. Do đó, để tăng cường xây dựng đạo đức
công vụ hiện nay, cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu phải thực hiện tốt trách
nhiệm nêu gương theo Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên.
Thứ tám, đổi mới mạnh mẽ tất cả các khâu của
công tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ. Theo GS
Hoàng Chí Bảo, để xây dựng văn hóa trong chính trị, xây dựng ĐĐCV không chỉ dựa
vào sự nỗ lực tự giác của mỗi cán bộ, công chức trong việc phấn đấu, rèn luyện
về đức và tài, không chỉ đòi hỏi mỗi tổ chức cần phải đẩy mạnh giáo dục, tuyên
truyền, mà còn phải chấn chỉnh tổ chức, gắn chặt với công tác tổ chức, khắc
phục triệt để những yếu kém, sai lầm trong công tác cán bộ, nhất là đánh giá,
tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ. Nói rộng ra là phép dùng người. Dùng người
không đúng, không công tâm khách quan, không vì sự nghiệp chung, thì chẳng
những có hại cho dân, cho nước, đất nước không phát triển được mà Đảng sẽ suy
yếu, chế độ sẽ suy yếu, văn hóa (trong đó có đạo đức) vẫn sẽ ở ngoài chính trị.
Không có văn hóa chính trị sẽ làm cho chính trị suy thoái, biến dạng, tha hóa
bởi tập nhiễm phải những phản văn hóa(17). Vì thế, phải ra sức cải cách thể
chế, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ theo hướng đánh giá đúng cán bộ và sử dụng
đúng cán bộ, thực hiện dân chủ hóa trong công tác cán bộ, khắc phục bằng được
hiện tượng bổ nhiệm và sử dụng cán bộ theo cách nói của nhân dân là: “nhất hậu
duệ, nhì quan hệ, ba đồ đệ, bốn tiền tệ, năm trí tuệ”; kịp thời thay thế những
cán bộ, công chức yếu về năng lực, kém về phẩm chất. Đây là giải pháp then chốt
về xây dựng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay.
Thứ chín, nghiên cứu để thành lập cơ quan chuyên
trách về xây dựng đạo đức công vụ, trước hết là trong hệ thống hành chính. Một
điểm chung trong xây dựng đạo đức công vụ ở nhiều nước trên thế giới là đều chú
trọng thành lập một cơ quan chuyên trách về xây dựng đạo đức công vụ. Chẳng
hạn, ở Hoa Kỳ, cơ quan chuyên trách về xây dựng đạo đức công chức là Văn phòng
đạo đức công chức. Người đứng đầu cơ quan này có hàm tương đương Bộ trưởng. Bên
cạnh cấp liên bang, ở các bang ở Hoa Kỳ cũng hình thành cơ quan tương tự. Ở
nước ta hiện nay, trên thực tế có nhiều cơ quan thực hiện việc xây dựng đạo đức
công vụ, nhưng chưa xác định được cơ quan nào chịu trách nhiệm chính. Vì vậy,
từ kinh nghiệm của nhiều nước, cần nghiên cứu để thành lập một cơ quan chuyên
trách về xây dựng đạo đức công vụ, trước hết là cơ quan chuyên trách về xây
dựng đạo đức công chức trong hệ thống hành chính. Trong điều kiện chưa thể
thành lập cơ quan này, cần thành lập Vụ Đạo đức công chức trực thuộc Bộ Nội vụ
và Phòng Đạo đức công chức thuộc Sở Nội vụ.
Đạo đức là cốt lõi để giải quyết mọi vấn đề
Trả lờiXóa