NHẤT NGUYÊN CHÍNH TRỊ - MỘT YÊU CẦU TẤT YẾU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và trước thực trạng yếu kém bất cập trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, xem công tác xây dựng Đảng không những là vấn đề có tính quy luật, mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Song, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới; là đội tiền phong của giai cấp công nhân; của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Trong
những năm gần đây, các phần tử cơ hội đưa ra thuyết “Đảng trị” với nhiều ý đồ xấu
xa đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa. Các phần tử này cho rằng, sự lãnh đạo của một Đảng ở Việt Nam mâu thuẫn
với học thuyết Mácxit, một Đảng lãnh đạo đã dẫn đến chế độ “Đảng trị”, gây tai
họa cho xã hội, không có tự do dân chủ, có một Đảng lãnh đạo thì kéo theo nhiều
thứ “độc”: độc tài, độc quyền; độc đoán. Khi nền kinh tế Việt Nam đã phát triển,
nền kinh tế nhiều thành phần thì đương nhiên thượng tầng kiến trúc phải chuyển
sang chế độ đa đảng mới phù hợp với học thuyết hình thái kinh tế xã hội của học
thuyết Mác. Học cho rằng, chỉ có chế độ đa đảng thì người lãnh đạo mới “chính
đáng, để có dân chủ, phải đa nguyên về chính trị; thực hiện phát triển kinh tế
thị trường mà vẫn duy trì chế độ nhất nguyên về chính trị, một đảng duy nhất cầm
quyền sẽ là một mâu thuẫn lớn gây bị kịch cho dân tộc”. Từ đó, những người theo
quan điểm này đề nghị phải xác lập chế độ đa đảng đối lập, phải xóa bỏ Điều 4 của
Hiến pháp.
Đối với nước ta, đề thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù,
giữ vững chế độ, vấn đề tất yếu là phải xây dựng, chính đốn Đảng, trước tình
hình trên Đảng ta đã khẳng định: định hướng xã hội chủ nghĩa dứt khoát phải thực
hiện chế độ một đảng, nhất nguyên chính trị, không chấp nhận đa Đảng, đa nguyên
chính trị. Đậy là một nguyên tắc nhất quán của Đảng ta, nhằm nâng cao năng lực,
sức chiến đấu để Đảng ngang tầm với nhiệm vụ và tình hình mới. Tất cả các vấn đề
trên là hết sức nhạy cảm đã và đang đặt ra cần phải giải quyết cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
1. Khái quát về Đảng chính trị và vai trò, chức năng của Đảng chính trị
Cho
đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về Đảng chính trị, trong đó đáng chú ý
là hai quan niệm cơ bản: một của các học giả tư sản và một của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Các học giả tư sản cho rằng: Đảng là một tổ chức chính trị của những người
tự nguyện, có chung mục tiêu chính trị, quyền lực nào đó; mục đích ra đời của đảng
là giành quyền lực nhà nước và bằng phương pháp bầu cử để Đảng tham gia nắm
chính quyền bằng phương pháp cách mạng, bằng bạo lực cách mạng. Từ quan niệm
này, có định nghĩa về Đảng như sau: “Đảng là tổ chức chính trị của những người
cùng chung hệ tư tưởng, đại biểu giác ngộ nhất, tích cực nhất của một giai cấp,
đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp ấy và lãnh đạo giai cấp ấy trong cuộc đấu
tranh chính trị”.
Đảng chính trị ra đời bắt
đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến và phát triển mạnh mẽ
trong xã hội hiện đại. Đảng sẽ mất ý nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai
cấp đã hoàn thành. Mục tiêu của các đảng phái chính trị là hướng tới lãnh đạo,
điều hành chính quyền nhà nước, tổ chức cho giai caoas và các lực lượng ngoài
giai cấp tiến hành đấu tranh theo đường lối chính trị của mình. Đây là vấn đề
có tính nguyên tắc.
Đảng chính trị bao giờ
cũng mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị luôn đại diện cho hệ tư tưởng, quyền
lực và lợi ích của giai cấp nhất định. Một giai cấp có thể có nhiều đảng chính
trị nhưng mỗi đảng đều mang bản chất của một giai cấ nhất định. Không thể có đảng
chính trị nào là phi giai cấp, là siêu giai cấp. Thực tế đã chứng minh, dù ở thời
đại nào, nước nào cũng không thể có một đảng chính trị vừa đại diện cho lợi ích
của giai cấp bóc lột thống trị lại vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp, tầng
lớp bị bóc lột. Lênin viết: “Đảng phải
là đội tiền phong, là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai cấp công nhân;
toàn thể giai cấp này hành động dưới sự kiểm soát và lãnh đạo của các tổ chức đảng,
nhưng họ không gia nhập tất cả và không được gia nhập tất cả vào Đảng”[1].
Bản
chất giai cấp quy định vai trò lịch sự của đảng chính trị. Vai trò của một đảng
chính trị đối với sự phát triển xã hội chủ yếu là phụ thuộc vào địa vị lịch sử
và bản chất giai cấp của đảng đó. Cho nên khi xem xét toàn diện một đảng, phải
tìm cho được bản chất của nó. Lênin nhấn mạnh: “Để nhận rõ được cuộc đấu tranh
của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thật sự của
đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc làm chứ không phải là những lời họ nói về bản
thân họ, xem hộ giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ họ như
thế nào trong những vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp
khác nhau trong xã hội”.
Đảng chính trị có 3 chức
năng cơ bản: Một là, đề ra cương lĩnh chính trị, chỉ rõ mục tiêu, phương
hướng chính trị và các biện pháp chủ yếu nhằm đạt được mục tiêu đó. Đối với các
đảng cầm quyền, cương lĩnh chĩnh trị của đảng là định hướng hoạt động của nhà
nước và cả xã hội nói chung. Hai là, tuyển chọn các nhà chính trị của đảng
để bố trí vào bộ máy chính quyền nhà nước. Ba là, đảng là công cụ để
hình thành những chủ trương, chính sách của đảng.
Sự tác động của các đảng
chính trị đến đời sống xã hội ở những mức độ khác nhau mà đảng cầm quyền bao giờ
cũng là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Tác động của các đảng
chính trị không chỉ ở mặt tích cực mà còn có cả mặt tiêu cực; tác dụng tích cực
hay tiêu cực đến đâu là tùy thuộc vào sứ mệnh lịch sử và bản chất giai cấp của
đảng chính trị. Cho nên, khi đánh giá một đảng không phải chỷ yếu chỉ dựa vào
cương lĩnh, đường lối, mà cơ bản hơn là xem xét tính hiệu quả chính trị - xã hội
của nó, sự ủng hộ của nhân dân và địa vị của đảng trong bộ máy chính quyền nhà
nước.
2. Chế độ đa
nguyên và nhất nguyên chính trị
Khi
bàn về chế độ đa nguyên và nhất nguyên chính trị thì có học giả cho rằng, mọi sự
vật đều được tạo thành từ nhiều nhân tố, bản chất sự vật là”đa nguyên”. Cho
nên, mọi hiện tượng xã hội, mọi lĩnh vực xã hội cũng là đa nguyên. Cố tình cưỡng
lại tính tất yếu “thép” đó là vi phạm quy luật khách quan, là ngoan cố và nhất
định phải trả giá… Vậy sự việc trên họ đã không hiểu hay cố tình không hiểu, thực
chất hộ đã đánh đồng phạm trù khái niệm, quy phạm trù khái niệm của các sự vật
hiện tượng của tự nhiên và lĩnh vực xã hội. Như chúng ta đã biết, đa nguyên về
chính trị là khái niệm được xác định chặt chẽ hơn, nó không phải là khái niệm
dùng để chỉ trong xã hội có tồn tại nhiều tổ chức, thiết chế chính trị khác
nhau, mà là khái niệm dùng để chỉ một xã hội đối với toàn xã hội, có nhiều đảng
chính trị đối lập, đấu tranh với nhau để chia sẻ quyền lãnh đạo chính trị. Với
cách hiểu này, một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là chế độ đa nguyên về chính trị.
Chẳng hạn, ở Trung Quốc hiện nay, ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc còn có tám đảng
dân chủ. Tám đảng này đều thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là người duy nhất
lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đều lấy mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội đặc sắc Trung Quốc là lý tưởng cao cả nhất của mình. Đó là chế độ đa đảng
mà nhất nguyên về chính trị. Ở Mỹ hiện nay, tuy Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa
thay nhau cầm quyền, nhưng nếu xem đó là chế độ đa nguyên về chính trị thì chưa
hẳn đúng. Bởi lẽ, hai đảng chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản;
xét về bản chất giai cấp - xã hội, hai đảng là không đồng nhất, có mục tiêu căn
bản giống nhau: củng cố và phát triển thể chế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ.
Đối với chế độ đa
nguyên chính trị
Chế độ đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập đã trở thành phổ biến trong các nước tư bản chủ nghĩa. Sự
đa nguyên hay đa đảng chủ yếu diễn ra trong tranh cử, trong đấu tranh ở nghị
trường đề giải quyết các vấn đề chính trị của đất nước. Chế độ này có những ưu
điểm và hạn chế riêng.
Về
ưu điểm: do tồn tại của nhiều đảng chính trị, mỗi đảng đều muốn tranh giành quần
chúng, tranh thủ tìm sự ủng hộ của nhiều cử tri nên đảng đều phải luôn tự đổi mới
về chính trị, tư tưởng, tổ chức… làm cho đời sống xã hội cũng khởi sắc, đổi mới.
Để duy trì vị trí lãnh đạo của mình, các đảng cầm quyền luôn nỗ lực điều hành
công việc quản lý nhà nước có hiệu quả, còn các đảng chính trị đối lập muốn lên
vị trí cầm quyền cũng phải tìm hiểu và tìm cách nói lên được yêu cầu, nguyện vọng
của nhân dân, nhờ vậy người dân có điều kiện phát biểu nguyện vọng và những thắc
mắc của mình. Cũng chính do sự cạnh tranh giữa các Đảng mà lãnh đạo của các Đảng
luôn chịu sự kiểm soát của các đảng viên, nhờ vậy ngăn chặn được sự độc đoán và
chuyên quyền.
Về
khuyết điểm: trong các quốc gia theo chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị,
các đảng chính trị thường tranh giành quần chúng, chia rẽ quần chúng, kích
thích sự thèm khát quyền lực của quần chúng, tạo thêm nhiều điều kiện để tham
nhũng phát triển. Chế độ chính trị ở các nước này thường không ổn định, xã hội
luôn tiềm ẩn những xung đột do sự tranh giành quyền lực của nhiều đảng phái
khác nhau; tệ tham nhũng là căn bệnh trầm kha; trong cạnh tranh để đạt mục tiêu
chính quyền nhà nước thì các đảng chính trị không từ một thủ đoạn nào, kể cả những
thủ đoạn không văn minh: khủng bố, mua chuộc, hối lộ, tung nói tin xấu lẫn
nhau.
Hiện tượng đa nguyên,
đa đảng trong nền dân chủ tư sản là xuất phát từ sự ra đời của nhiều đảng chính
trị tư sản trong cuộc đấu trành chống chế độ phong kiến. Ngay từ khi ra đời, dù
có chung mục đích là lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa
nhưng các đảng tư sản đã có những mâu thuẫn nội bộ, phản ánh những mâu thuẫn về
lợi ích giữa các giai tầng trong nội bộ giai cấp tư sản. Ngày nay, những mâu
thuẫn cục bộ về lợi ích giữa các tập đoàn tư bản cùng những mâu thuẫn cơ bản với
các giai cấp và các tầng lớp khác không những không mất đi mà còn tăng lên với
cả các tầng lớp xã hội mới trưởng thành. Vì thế, mà các đảng khác nhau ấy vẫn tồn
tại bên nhau, các đảng mới tiếp tục được thành lập, chúng đấu tranh giành giật
quyền lợi, lợi ích cá nhân.
Chế độ đa nguyên về
hình thức có vẻ rất dân chủ, các đảng đều có quyền tự do tranh luận, ứng cử và
bầu cử… để trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng thực chất chỉ có những đảng lớn, có
thế lực và có sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản lớn, được pháp luật dành cho
sự thuận lợi mới có khả năng thắng cử và trở thành đảng cầm quyền. Các đảng lớn
thay thế nhau cầm quyền nhưng xét cho cùng dù là đảng nào trong giai cấp tư sản
giành thắng lợi thì mục tiêu chính trị cũng là trước hết phục vụ giai cấp tư sản.
Cho nên, về thực chất “Đa nguyên chính trị tư sản” cũng là nhất nguyên chính trị
của giai cấp tư sản, các đảng cầm quyền tư sản luôn tìm mọi cách che đậy thực
chất của sự chuyên chính tư sản và họ cố gắng điều chỉnh phần nào quan hệ lợi
ích giữa các giai cấp và tầng lớp để làm dịu bớt những mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản hiện đại bằng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chính
sách an sinh xã hội.
Chế độ nhất nguyên
trong các nước xã hội chủ nghĩa
Các nước xã hội chủ
nghĩa đều theo chế độ nhất nguyên chính trị với một đảng cầm quyền duy nhất là
Đảng Cộng sản. Chế độ nhất nguyên chính trị cũng có những ưu điểm, khuyết điểm
riêng:
Về ưu điểm: do là đảng
duy nhất lãnh đạo chính trị, đường lối chủ trương của Đảng cầm quyền, lãnh đạo
đất nước được nhà nước thế chế hóa, các tổ chức chính trị xã hội triển khai thực
hiện tạo nên sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện các quyết sách chính
trị, phát huy mọi sức mạnh, mọi nguồn lực phục vụ xã hội, phù hợp với mục tiêu
chính trị của Đảng cầm quyền và do không có tranh giành, đấu đá giữa các đảng
chính trị nên dễ ổn định chính trị xã hội.
Về hạn chế: các quốc
gia theo chế độ nhất nguyên chính trị, đảng chinshtrij sau khi giành được chính
quyền dễ có xu hướng quan liêu, xã rời nhân dân. Đây là căn bệnh phổ biến mà
trước đây các Đảng Cộng sản các nước thường mắc phải. Chế độ một đảng cầm quyền
mà không thực hiện dân chủ đầy đủ, vi phạm dân chủ thì cũng tiềm ẩn nguy cơ, trở
ngại. Đó là chủ quan duy ý chí và quan liêu trong xác định chủ trương, đường lối…
Đảng dễ áp đặt ý chí của mình vào nhà nước và xã hội, áp đặt không hợp lý người
của đảng, không đủ các tiêu chuẩn vào các cơ quan nhà nước và đoàn thể, tự đặt
đảng lên trên nhà nước và pháp luật. Đảng bao biện, làm thay công việc nhà nước
mà không chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình. Người dân khó kiểm
soát, giám sát được các cơ quan quyền lục và cán bộ trong hệ thống quyền lực.
Trong
chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về vận mệnh
của quốc gia dân tộc, là người duy nhất lãnh đạo quần chúng cướp chính quyền từ
giai cấp bóc lột, lãnh đạo hệ thống chính trị - xã hội. Lenin đã từng khẳng định
rằng: “Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của
giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức
làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”[2].
Hơn nữa. vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ngày càng tăng lên theo sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội: phải tập trung lãnh đạo thống nhất các quá trình
phát triển xã hội, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản mới có thể ổn định chính trị, tập
hợp được sức mạnh của toàn dân để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu thực hiện đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì chỉ có lợi cho các lực lượng chống phá
cách mạng.
Thực tế lịch sử cách mạng
vô sản cho đến ngày nay đã chỉ ra rằng: Thứ nhất, quyền duy nhất lãnh đạo
cách mạng của một Đảng Cộng sản là do bản chất của giai cấp công nhân quy định.
Bởi giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất, là lực lượng đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của thời đại; mặt khác, lợi ích của
giai cấp công nhân tương đồng với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động. Vì
vậy, khi đấu tranh giải phóng cho mình, giai cấp công nhân cũng đồng thời giải
phóng cho tất cả. Vì lẽ đó mà được nông dân và nhân dân lao động cả dân tộc xem
là Đảng của mình mà không cần thành lập thêm Đảng nào khác. Thứ hai, sự
nhất nguyên của một đảng cầm quyền là do thực tiễn cách mạng vô sản quy định.
Các lực lượng gọi là “đối trọng” với Đảng Cộng sản, thực chất đều là những tổ
chức chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Cho nên lịch sử đã đặt trọng
trách về vận mệnh của quộc gia dân tộc cho Đảng Cộng sản phải gánh lấy. Thứ ba,
sự nhất nguyên của một Đảng Cộng sản cầm quyền còn là bài học xương máu của
nhân dân. Sự thực hiện “đa nguyên” “đa đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên
Xô và Đông Âu vừa qua là một bài học đắt giá đối với các nước xã hội chủ nghĩa,
đã làm cho chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng và lâm vào thoái trào. Đồng thời, thực
tế cũng chứng mình rằng các nước thực hiện sự cải cách thay đổi mới thu được những
thắng lợi căn bản và vững bước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội đều đã kiên
trì nguyên tắc: nhất nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy
nhất, đúng đắn của Đảng Cộng sản đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Vì
vậy, nhất nguyên chính trị với một Đảng Cộng sản lãnh đạo là quy luật cơ bản của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội - một tất yếu
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đảng ta khẳng định: định hướng xã hội chủ
nghĩa dứt khoát phải thực hiện chế độ một đảng, nhất nguyên chính trị, không chấp
nhận đa Đảng, đa nguyên chính trị. Đây là một nguyên tắc nhất quán của Đảng ta.
Một
chế độ nhất nguyên hay đa nguyên về chính trị do một loạt nhân tố quy định,
trong đó, đáng quan tâm nhất là: tương quan lực lượng giữa các giai cấp; bối cảnh
xác lập vị trí lãnh đạo, vai trò cầm quyền của đảng; những thành tựu mà nhân
dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó. Vậy
trong một nước có thể có nhiều đảng phái chính trị của các giai cấp, tầng lớp
xã hội khác nhau cùng tồn tại, đối lập, đấu tranh với nhau đòi chia sẻ vai trò
lãnh đạo chính trị và chi phối đời sống chính trị - xã hội của quốc gia, đó là
các nước thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Song thực tiễn
hiện nay trên thế giới có những nước chỉ có duy nhất một đảng chính trị chi phối
quyền lực chính trị - xã hội như ở Singgapo hoặc ở Việt Nam là ví dụ điển hình,
biểu hiện cụ thể:
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã nổ ra và giành thắng lợi huy
hoàng, dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đưa người dân
Việt Nam từ thân phận thảo dân một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành
công dân một nước độc lập, tự do. Thắng lợi đó là sự minh chứng sinh động khẳng
định tài thao lược của Đảng, năng lực sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
quá trình hoạch định, bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc; đồng thời, khẳng định năng lực của Đảng trong việc vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong khi một loạt nước
xã hội chủ nghĩa có lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội dài hơn lần lượt sụp đổ,
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đứng vững và nhờ đổi mới đúng đắn, nhân dân ta
còn đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử được nhiều nước ca ngợi. Kinh tế
những năm qua tăng trưởng liên tục, nhiều năm đạt trên 7%; nhiều vấn đề văn hóa
- xã hội bức xúc từng bước được giải quyết, an ninh - quốc phòng được tăng cường
và giữ vững; hội nhập quốc tế có hiệu quả cao; quan hệ đối ngoại không ngừng được
rộng mở… Điều đó chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tài tình trong lãnh
đạo tiến hành chống chiến tranh xâm lược mà còn thực sự xứng đáng là người lãnh
đạo xây dựng đất nước trong thời bình, ngay cả khi bối cảnh quốc tế có những biến
động khôn lường. Song, cội nguồn sâu xa nhất của mọi thành tựu mà nhân dân ta đạt
được trong những năm qua là nhờ nhân dân tin ở Đảng, quyết tâm thực hiện và cụ
thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng lao động sáng tạo
của mình, nhân dân biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực sinh động
trong cuộc sống. Chính vì thế, năm 2010 khi trả lời phỏng vấn báo chí Ấn Độ
nhân chuyến thăm quốc gia này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã khẳng định: “Không
phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có
hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có
phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất
nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó là tiêu chí quan trọng
nhất”[3].
Việc duy trì chế độ nhất
nguyên chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, cho dù
cở các nước này đang thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Có quan điểm
cho rằng khi đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, tất yếu thượng tầng
kiến trúc sẽ thay đổi thành thể chế chính trị đa nguyên, chế độ đa đảng. Theo học
thuyết của Mác về hình thái kinh tế xã hội thì cơ sở hạ tầng các quan hệ kinh tế
phản ánh vào thượng tầng kiến trúc (nhà nước, pháp luật, chính trị, văn học,
nghệ thuật…) và quyết định thượng tầng kiến trúc. Song đó không phải là sự phản
ánh máy móc, có bao nhiêu thành phần kinh tế tư nhân giữ vai trò chi phối thì
thượng tầng kiến trúc phản ánh các quan hệ ấy bằng việc giai cấp tư sản giữ địa
vị thống trị. Còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, do kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, tất nhiên cơ sở hạ tầng ấy quyết định, phản ánh vào thượng tầng kiến
trúc: Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo. Đây không chỉ phù hợp với thực tế của
đất nước mà còn là sự thể hiện đúng đắn mối quan hệ phổ biễn giữa chính trị và
kinh tế, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
3. Những vấn đề
chủ yếu để thực hiện nhất nguyên chính trị - một yêu cầu tất yếu của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, chúng ta đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh
quốc tế có những biến đổi mau lẹ, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống
gia tăng, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Mặt trái nền kinh tế thị trường đang hàng ngày,
hàng giờ tác động đến các lĩnh vực đời sống xã hội; sự phân hóa, phân tầng xã hội
đang diễn ra sâu sắc; sự “Suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống với những biểu
hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài… tham nhũng, lãng phí…” chưa bị đẩy
lùi, “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”, gây tâm trạng lo lắng, bất bình trong nhân
dân. Lợi dụng vấn đề trên chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống
phá cách mạng nước ta bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành hết
sức tinh vi. Vì vậy, hơn lúc nào hết để lãnh đạo cách mạng ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ, trước yếu cầu sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta
phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng - một
yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Một là,
kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo; trong
quá trình đổi mới phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo cảu Đảng, kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lâp dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
Hai là,
Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi
mới công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình; giữ
gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên
quyết với những phần tử cơ hội. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững
mạnh, tinh gọn; xác định thẩm quyền rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.
Ba là,
Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Phải
tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các
khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí và sừ dụng
cán bộ. Đặc biệt coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân tài.
Bốn là,
Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng các thiết chế mở rộng
và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều
có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích chính đáng của
nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên phải thực sự là công bộc của
nhân dân.
Năm là,
Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát; khẳng định đó là chức năng, là phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để
phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời mọi sai phạm, khuyết điểm;
kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng
viên góp phần xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày
càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận,
của đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.
Sáu là,
Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương pháp lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh
đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các quy chế về
sự lãnh đạo của Đảng ở cách ngành, các cấp. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và Pháp luật; không làm thay đổi công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.
Như vậy, đảng chính trị
bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị luôn đại diện cho hệ tư tưởng,
quyền lực và lợi ích của giai cấp nhất định. Một giai cấp có thể có nhiều đảng
chính trị nhưng mỗi đảng đều mang bản chất của một giai cấp nhất định. Không thể
có đảng chính trị nào là phi giai cấp, là siêu giai cấp. Thực tế đã chứng minh,
dù ở thời đại nào, nước nào cũng không thể có một đảng chính trị đứng ngoài
giai cấp và chính bản chất giai cấp quy định vai trò lịch sử của đảng chính trị
đó. Vai trò của một đảng chính trị đối với sự phát triển xã hội chủ yếu là phụ
thuộc vào địa vị lịch sử và bản chất của giai cấp đó. Các nước xã hội chủ nghĩa
đều theo chế độ một Đảng nhất nguyên chính trị là do xuất phát từ điều kiện lịch
sử. Từ khi phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ra đời cho đến nay, thực
tế cho thấy chưa có Đảng Cộng sản nào giành thắng lợi thông qua con đường nghị
trường dù đã tranh thủ tối đa khả năng đó. Lịch sử đã chứng minh các Đảng Cộng
sản giành chính quyền thắng lợi chỉ bằng bạo lực cách mạng và sau khi giành
chính quyền thắng lợi sẽ thiết lập hệ thống chính trị, trong đó Đảng Cộng sản
giữ vai trò duy nhất lãnh đạo, xây dựng chế độ mới. Trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền cũng như trong xây dựng chế độ mới, không có một giai cấp nào, một
lực lượng nào có thực lực, có tín nhiệm với nhân dân để có thể “đối trọng” với
Đảng Cộng sản.
Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của tính hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; trước yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới và trước thực trạng yếu kém bất cập trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, xem công tác xây dựng Đảng không những là vấn để có tính quy luật, mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Song dưới anh sáng của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hơn 90 năm qua, chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc./.
Đoàn Quang Trung
#SQCT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H.2007.
2.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 - 01 - 2011).
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tập 1,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tập 2,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
5.
Nguyễn Văn Ngọc, “Nhận diện và đấu tranh phê phán quan điểm “Muốn Việt Nam thực
sự dân chủ và phát triển cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập””,
in trong sách Kiên định, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh bác bỏ các
quan điểm sai trái, thù địch, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2019.
[1] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 7, Nxb
Tiến bộ, Mát xcơva, 1979, tr.352.
[2] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, H.2005, tập 33. tr 33
[3] Hội đồng Lý luận Trung ương: Phê
phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 313
Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới
Trả lờiXóa