Social Icons

Pages

Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

NHẤT NGUYÊN CHÍNH TRỊ - MỘT YÊU CẦU TẤT YẾU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và trước thực trạng yếu kém bất cập trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, xem công tác xây dựng Đảng không những là vấn đề có tính quy luật, mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Song, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới; là đội tiền phong của giai cấp công nhân; của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Trong những năm gần đây, các phần tử cơ hội đưa ra thuyết “Đảng trị” với nhiều ý đồ xấu xa đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Các phần tử này cho rằng, sự lãnh đạo của một Đảng ở Việt Nam mâu thuẫn với học thuyết Mácxit, một Đảng lãnh đạo đã dẫn đến chế độ “Đảng trị”, gây tai họa cho xã hội, không có tự do dân chủ, có một Đảng lãnh đạo thì kéo theo nhiều thứ “độc”: độc tài, độc quyền; độc đoán. Khi nền kinh tế Việt Nam đã phát triển, nền kinh tế nhiều thành phần thì đương nhiên thượng tầng kiến trúc phải chuyển sang chế độ đa đảng mới phù hợp với học thuyết hình thái kinh tế xã hội của học thuyết Mác. Học cho rằng, chỉ có chế độ đa đảng thì người lãnh đạo mới “chính đáng, để có dân chủ, phải đa nguyên về chính trị; thực hiện phát triển kinh tế thị trường mà vẫn duy trì chế độ nhất nguyên về chính trị, một đảng duy nhất cầm quyền sẽ là một mâu thuẫn lớn gây bị kịch cho dân tộc”. Từ đó, những người theo quan điểm này đề nghị phải xác lập chế độ đa đảng đối lập, phải xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp.

Đối với nước ta, đề thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù, giữ vững chế độ, vấn đề tất yếu là phải xây dựng, chính đốn Đảng, trước tình hình trên Đảng ta đã khẳng định: định hướng xã hội chủ nghĩa dứt khoát phải thực hiện chế độ một đảng, nhất nguyên chính trị, không chấp nhận đa Đảng, đa nguyên chính trị. Đậy là một nguyên tắc nhất quán của Đảng ta, nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu để Đảng ngang tầm với nhiệm vụ và tình hình mới. Tất cả các vấn đề trên là hết sức nhạy cảm đã và đang đặt ra cần phải giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn.

1. Khái quát về Đảng chính trị và vai trò, chức năng của Đảng chính trị

Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về Đảng chính trị, trong đó đáng chú ý là hai quan niệm cơ bản: một của các học giả tư sản và một của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các học giả tư sản cho rằng: Đảng là một tổ chức chính trị của những người tự nguyện, có chung mục tiêu chính trị, quyền lực nào đó; mục đích ra đời của đảng là giành quyền lực nhà nước và bằng phương pháp bầu cử để Đảng tham gia nắm chính quyền bằng phương pháp cách mạng, bằng bạo lực cách mạng. Từ quan niệm này, có định nghĩa về Đảng như sau: “Đảng là tổ chức chính trị của những người cùng chung hệ tư tưởng, đại biểu giác ngộ nhất, tích cực nhất của một giai cấp, đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp ấy và lãnh đạo giai cấp ấy trong cuộc đấu tranh chính trị”.

Đảng chính trị ra đời bắt đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến và phát triển mạnh mẽ trong xã hội hiện đại. Đảng sẽ mất ý nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp đã hoàn thành. Mục tiêu của các đảng phái chính trị là hướng tới lãnh đạo, điều hành chính quyền nhà nước, tổ chức cho giai caoas và các lực lượng ngoài giai cấp tiến hành đấu tranh theo đường lối chính trị của mình. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc.

Đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị luôn đại diện cho hệ tư tưởng, quyền lực và lợi ích của giai cấp nhất định. Một giai cấp có thể có nhiều đảng chính trị nhưng mỗi đảng đều mang bản chất của một giai cấ nhất định. Không thể có đảng chính trị nào là phi giai cấp, là siêu giai cấp. Thực tế đã chứng minh, dù ở thời đại nào, nước nào cũng không thể có một đảng chính trị vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp bóc lột thống trị lại vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp bị bóc lột. Lênin viết:  “Đảng phải là đội tiền phong, là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai cấp công nhân; toàn thể giai cấp này hành động dưới sự kiểm soát và lãnh đạo của các tổ chức đảng, nhưng họ không gia nhập tất cả và không được gia nhập tất cả vào Đảng”[1].

Bản chất giai cấp quy định vai trò lịch sự của đảng chính trị. Vai trò của một đảng chính trị đối với sự phát triển xã hội chủ yếu là phụ thuộc vào địa vị lịch sử và bản chất giai cấp của đảng đó. Cho nên khi xem xét toàn diện một đảng, phải tìm cho được bản chất của nó. Lênin nhấn mạnh: “Để nhận rõ được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thật sự của đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc làm chứ không phải là những lời họ nói về bản thân họ, xem hộ giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ họ như thế nào trong những vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp khác nhau trong xã hội”.

Đảng chính trị có 3 chức năng cơ bản: Một là, đề ra cương lĩnh chính trị, chỉ rõ mục tiêu, phương hướng chính trị và các biện pháp chủ yếu nhằm đạt được mục tiêu đó. Đối với các đảng cầm quyền, cương lĩnh chĩnh trị của đảng là định hướng hoạt động của nhà nước và cả xã hội nói chung. Hai là, tuyển chọn các nhà chính trị của đảng để bố trí vào bộ máy chính quyền nhà nước. Ba là, đảng là công cụ để hình thành những chủ trương, chính sách của đảng.

Sự tác động của các đảng chính trị đến đời sống xã hội ở những mức độ khác nhau mà đảng cầm quyền bao giờ cũng là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Tác động của các đảng chính trị không chỉ ở mặt tích cực mà còn có cả mặt tiêu cực; tác dụng tích cực hay tiêu cực đến đâu là tùy thuộc vào sứ mệnh lịch sử và bản chất giai cấp của đảng chính trị. Cho nên, khi đánh giá một đảng không phải chỷ yếu chỉ dựa vào cương lĩnh, đường lối, mà cơ bản hơn là xem xét tính hiệu quả chính trị - xã hội của nó, sự ủng hộ của nhân dân và địa vị của đảng trong bộ máy chính quyền nhà nước.

2. Chế độ đa nguyên và nhất nguyên chính trị

Khi bàn về chế độ đa nguyên và nhất nguyên chính trị thì có học giả cho rằng, mọi sự vật đều được tạo thành từ nhiều nhân tố, bản chất sự vật là”đa nguyên”. Cho nên, mọi hiện tượng xã hội, mọi lĩnh vực xã hội cũng là đa nguyên. Cố tình cưỡng lại tính tất yếu “thép” đó là vi phạm quy luật khách quan, là ngoan cố và nhất định phải trả giá… Vậy sự việc trên họ đã không hiểu hay cố tình không hiểu, thực chất hộ đã đánh đồng phạm trù khái niệm, quy phạm trù khái niệm của các sự vật hiện tượng của tự nhiên và lĩnh vực xã hội. Như chúng ta đã biết, đa nguyên về chính trị là khái niệm được xác định chặt chẽ hơn, nó không phải là khái niệm dùng để chỉ trong xã hội có tồn tại nhiều tổ chức, thiết chế chính trị khác nhau, mà là khái niệm dùng để chỉ một xã hội đối với toàn xã hội, có nhiều đảng chính trị đối lập, đấu tranh với nhau để chia sẻ quyền lãnh đạo chính trị. Với cách hiểu này, một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là chế độ đa nguyên về chính trị. Chẳng hạn, ở Trung Quốc hiện nay, ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc còn có tám đảng dân chủ. Tám đảng này đều thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là người duy nhất lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đều lấy mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là lý tưởng cao cả nhất của mình. Đó là chế độ đa đảng mà nhất nguyên về chính trị. Ở Mỹ hiện nay, tuy Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền, nhưng nếu xem đó là chế độ đa nguyên về chính trị thì chưa hẳn đúng. Bởi lẽ, hai đảng chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản; xét về bản chất giai cấp - xã hội, hai đảng là không đồng nhất, có mục tiêu căn bản giống nhau: củng cố và phát triển thể chế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ.

Đối với chế độ đa nguyên chính trị

Chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập đã trở thành phổ biến trong các nước tư bản chủ nghĩa. Sự đa nguyên hay đa đảng chủ yếu diễn ra trong tranh cử, trong đấu tranh ở nghị trường đề giải quyết các vấn đề chính trị của đất nước. Chế độ này có những ưu điểm và hạn chế riêng.

Về ưu điểm: do tồn tại của nhiều đảng chính trị, mỗi đảng đều muốn tranh giành quần chúng, tranh thủ tìm sự ủng hộ của nhiều cử tri nên đảng đều phải luôn tự đổi mới về chính trị, tư tưởng, tổ chức… làm cho đời sống xã hội cũng khởi sắc, đổi mới. Để duy trì vị trí lãnh đạo của mình, các đảng cầm quyền luôn nỗ lực điều hành công việc quản lý nhà nước có hiệu quả, còn các đảng chính trị đối lập muốn lên vị trí cầm quyền cũng phải tìm hiểu và tìm cách nói lên được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, nhờ vậy người dân có điều kiện phát biểu nguyện vọng và những thắc mắc của mình. Cũng chính do sự cạnh tranh giữa các Đảng mà lãnh đạo của các Đảng luôn chịu sự kiểm soát của các đảng viên, nhờ vậy ngăn chặn được sự độc đoán và chuyên quyền.

Về khuyết điểm: trong các quốc gia theo chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị, các đảng chính trị thường tranh giành quần chúng, chia rẽ quần chúng, kích thích sự thèm khát quyền lực của quần chúng, tạo thêm nhiều điều kiện để tham nhũng phát triển. Chế độ chính trị ở các nước này thường không ổn định, xã hội luôn tiềm ẩn những xung đột do sự tranh giành quyền lực của nhiều đảng phái khác nhau; tệ tham nhũng là căn bệnh trầm kha; trong cạnh tranh để đạt mục tiêu chính quyền nhà nước thì các đảng chính trị không từ một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn không văn minh: khủng bố, mua chuộc, hối lộ, tung nói tin xấu lẫn nhau.

Hiện tượng đa nguyên, đa đảng trong nền dân chủ tư sản là xuất phát từ sự ra đời của nhiều đảng chính trị tư sản trong cuộc đấu trành chống chế độ phong kiến. Ngay từ khi ra đời, dù có chung mục đích là lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng các đảng tư sản đã có những mâu thuẫn nội bộ, phản ánh những mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai tầng trong nội bộ giai cấp tư sản. Ngày nay, những mâu thuẫn cục bộ về lợi ích giữa các tập đoàn tư bản cùng những mâu thuẫn cơ bản với các giai cấp và các tầng lớp khác không những không mất đi mà còn tăng lên với cả các tầng lớp xã hội mới trưởng thành. Vì thế, mà các đảng khác nhau ấy vẫn tồn tại bên nhau, các đảng mới tiếp tục được thành lập, chúng đấu tranh giành giật quyền lợi, lợi ích cá nhân.

Chế độ đa nguyên về hình thức có vẻ rất dân chủ, các đảng đều có quyền tự do tranh luận, ứng cử và bầu cử… để trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng thực chất chỉ có những đảng lớn, có thế lực và có sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản lớn, được pháp luật dành cho sự thuận lợi mới có khả năng thắng cử và trở thành đảng cầm quyền. Các đảng lớn thay thế nhau cầm quyền nhưng xét cho cùng dù là đảng nào trong giai cấp tư sản giành thắng lợi thì mục tiêu chính trị cũng là trước hết phục vụ giai cấp tư sản. Cho nên, về thực chất “Đa nguyên chính trị tư sản” cũng là nhất nguyên chính trị của giai cấp tư sản, các đảng cầm quyền tư sản luôn tìm mọi cách che đậy thực chất của sự chuyên chính tư sản và họ cố gắng điều chỉnh phần nào quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp để làm dịu bớt những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện đại bằng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách an sinh xã hội.

Chế độ nhất nguyên trong các nước xã hội chủ nghĩa

Các nước xã hội chủ nghĩa đều theo chế độ nhất nguyên chính trị với một đảng cầm quyền duy nhất là Đảng Cộng sản. Chế độ nhất nguyên chính trị cũng có những ưu điểm, khuyết điểm riêng:

Về ưu điểm: do là đảng duy nhất lãnh đạo chính trị, đường lối chủ trương của Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước được nhà nước thế chế hóa, các tổ chức chính trị xã hội triển khai thực hiện tạo nên sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện các quyết sách chính trị, phát huy mọi sức mạnh, mọi nguồn lực phục vụ xã hội, phù hợp với mục tiêu chính trị của Đảng cầm quyền và do không có tranh giành, đấu đá giữa các đảng chính trị nên dễ ổn định chính trị xã hội.

Về hạn chế: các quốc gia theo chế độ nhất nguyên chính trị, đảng chinshtrij sau khi giành được chính quyền dễ có xu hướng quan liêu, xã rời nhân dân. Đây là căn bệnh phổ biến mà trước đây các Đảng Cộng sản các nước thường mắc phải. Chế độ một đảng cầm quyền mà không thực hiện dân chủ đầy đủ, vi phạm dân chủ thì cũng tiềm ẩn nguy cơ, trở ngại. Đó là chủ quan duy ý chí và quan liêu trong xác định chủ trương, đường lối… Đảng dễ áp đặt ý chí của mình vào nhà nước và xã hội, áp đặt không hợp lý người của đảng, không đủ các tiêu chuẩn vào các cơ quan nhà nước và đoàn thể, tự đặt đảng lên trên nhà nước và pháp luật. Đảng bao biện, làm thay công việc nhà nước mà không chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình. Người dân khó kiểm soát, giám sát được các cơ quan quyền lục và cán bộ trong hệ thống quyền lực.

Trong chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về vận mệnh của quốc gia dân tộc, là người duy nhất lãnh đạo quần chúng cướp chính quyền từ giai cấp bóc lột, lãnh đạo hệ thống chính trị - xã hội. Lenin đã từng khẳng định rằng: “Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”[2]. Hơn nữa. vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ngày càng tăng lên theo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội: phải tập trung lãnh đạo thống nhất các quá trình phát triển xã hội, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản mới có thể ổn định chính trị, tập hợp được sức mạnh của toàn dân để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì chỉ có lợi cho các lực lượng chống phá cách mạng.

Thực tế lịch sử cách mạng vô sản cho đến ngày nay đã chỉ ra rằng: Thứ nhất, quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng của một Đảng Cộng sản là do bản chất của giai cấp công nhân quy định. Bởi giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất, là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của thời đại; mặt khác, lợi ích của giai cấp công nhân tương đồng với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động. Vì vậy, khi đấu tranh giải phóng cho mình, giai cấp công nhân cũng đồng thời giải phóng cho tất cả. Vì lẽ đó mà được nông dân và nhân dân lao động cả dân tộc xem là Đảng của mình mà không cần thành lập thêm Đảng nào khác. Thứ hai, sự nhất nguyên của một đảng cầm quyền là do thực tiễn cách mạng vô sản quy định. Các lực lượng gọi là “đối trọng” với Đảng Cộng sản, thực chất đều là những tổ chức chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Cho nên lịch sử đã đặt trọng trách về vận mệnh của quộc gia dân tộc cho Đảng Cộng sản phải gánh lấy. Thứ ba, sự nhất nguyên của một Đảng Cộng sản cầm quyền còn là bài học xương máu của nhân dân. Sự thực hiện “đa nguyên” “đa đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên Xô và Đông Âu vừa qua là một bài học đắt giá đối với các nước xã hội chủ nghĩa, đã làm cho chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng và lâm vào thoái trào. Đồng thời, thực tế cũng chứng mình rằng các nước thực hiện sự cải cách thay đổi mới thu được những thắng lợi căn bản và vững bước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội đều đã kiên trì nguyên tắc: nhất nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy nhất, đúng đắn của Đảng Cộng sản đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Vì vậy, nhất nguyên chính trị với một Đảng Cộng sản lãnh đạo là quy luật cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội - một tất yếu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

 Đảng ta khẳng định: định hướng xã hội chủ nghĩa dứt khoát phải thực hiện chế độ một đảng, nhất nguyên chính trị, không chấp nhận đa Đảng, đa nguyên chính trị. Đây là một nguyên tắc nhất quán của Đảng ta.

Một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên về chính trị do một loạt nhân tố quy định, trong đó, đáng quan tâm nhất là: tương quan lực lượng giữa các giai cấp; bối cảnh xác lập vị trí lãnh đạo, vai trò cầm quyền của đảng; những thành tựu mà nhân dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó. Vậy trong một nước có thể có nhiều đảng phái chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cùng tồn tại, đối lập, đấu tranh với nhau đòi chia sẻ vai trò lãnh đạo chính trị và chi phối đời sống chính trị - xã hội của quốc gia, đó là các nước thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Song thực tiễn hiện nay trên thế giới có những nước chỉ có duy nhất một đảng chính trị chi phối quyền lực chính trị - xã hội như ở Singgapo hoặc ở Việt Nam là ví dụ điển hình, biểu hiện cụ thể:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã nổ ra và giành thắng lợi huy hoàng, dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đưa người dân Việt Nam từ thân phận thảo dân một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành công dân một nước độc lập, tự do. Thắng lợi đó là sự minh chứng sinh động khẳng định tài thao lược của Đảng, năng lực sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hoạch định, bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời, khẳng định năng lực của Đảng trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trong khi một loạt nước xã hội chủ nghĩa có lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội dài hơn lần lượt sụp đổ, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đứng vững và nhờ đổi mới đúng đắn, nhân dân ta còn đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử được nhiều nước ca ngợi. Kinh tế những năm qua tăng trưởng liên tục, nhiều năm đạt trên 7%; nhiều vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc từng bước được giải quyết, an ninh - quốc phòng được tăng cường và giữ vững; hội nhập quốc tế có hiệu quả cao; quan hệ đối ngoại không ngừng được rộng mở… Điều đó chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tài tình trong lãnh đạo tiến hành chống chiến tranh xâm lược mà còn thực sự xứng đáng là người lãnh đạo xây dựng đất nước trong thời bình, ngay cả khi bối cảnh quốc tế có những biến động khôn lường. Song, cội nguồn sâu xa nhất của mọi thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong những năm qua là nhờ nhân dân tin ở Đảng, quyết tâm thực hiện và cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng lao động sáng tạo của mình, nhân dân biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Chính vì thế, năm 2010 khi trả lời phỏng vấn báo chí Ấn Độ nhân chuyến thăm quốc gia này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất”[3].

Việc duy trì chế độ nhất nguyên chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, cho dù cở các nước này đang thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Có quan điểm cho rằng khi đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, tất yếu thượng tầng kiến trúc sẽ thay đổi thành thể chế chính trị đa nguyên, chế độ đa đảng. Theo học thuyết của Mác về hình thái kinh tế xã hội thì cơ sở hạ tầng các quan hệ kinh tế phản ánh vào thượng tầng kiến trúc (nhà nước, pháp luật, chính trị, văn học, nghệ thuật…) và quyết định thượng tầng kiến trúc. Song đó không phải là sự phản ánh máy móc, có bao nhiêu thành phần kinh tế tư nhân giữ vai trò chi phối thì thượng tầng kiến trúc phản ánh các quan hệ ấy bằng việc giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị. Còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, do kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tất nhiên cơ sở hạ tầng ấy quyết định, phản ánh vào thượng tầng kiến trúc: Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo. Đây không chỉ phù hợp với thực tế của đất nước mà còn là sự thể hiện đúng đắn mối quan hệ phổ biễn giữa chính trị và kinh tế, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

3. Những vấn đề chủ yếu để thực hiện nhất nguyên chính trị - một yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi mau lẹ, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống gia tăng, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Mặt trái nền kinh tế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến các lĩnh vực đời sống xã hội; sự phân hóa, phân tầng xã hội đang diễn ra sâu sắc; sự “Suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài… tham nhũng, lãng phí…” chưa bị đẩy lùi, “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”, gây tâm trạng lo lắng, bất bình trong nhân dân. Lợi dụng vấn đề trên chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành hết sức tinh vi. Vì vậy, hơn lúc nào hết để lãnh đạo cách mạng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, trước yếu cầu sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng - một yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Một là, kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo; trong quá trình đổi mới phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo cảu Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.

Hai là, Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình; giữ gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ hội. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác định thẩm quyền rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.

Ba là, Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí và sừ dụng cán bộ. Đặc biệt coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân tài.

Bốn là, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên phải thực sự là công bộc của nhân dân.

Năm là, Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; khẳng định đó là chức năng, là phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên góp phần xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận, của đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.

Sáu là, Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương pháp lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở cách ngành, các cấp. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật; không làm thay đổi công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Như vậy, đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. Đảng chính trị luôn đại diện cho hệ tư tưởng, quyền lực và lợi ích của giai cấp nhất định. Một giai cấp có thể có nhiều đảng chính trị nhưng mỗi đảng đều mang bản chất của một giai cấp nhất định. Không thể có đảng chính trị nào là phi giai cấp, là siêu giai cấp. Thực tế đã chứng minh, dù ở thời đại nào, nước nào cũng không thể có một đảng chính trị đứng ngoài giai cấp và chính bản chất giai cấp quy định vai trò lịch sử của đảng chính trị đó. Vai trò của một đảng chính trị đối với sự phát triển xã hội chủ yếu là phụ thuộc vào địa vị lịch sử và bản chất của giai cấp đó. Các nước xã hội chủ nghĩa đều theo chế độ một Đảng nhất nguyên chính trị là do xuất phát từ điều kiện lịch sử. Từ khi phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ra đời cho đến nay, thực tế cho thấy chưa có Đảng Cộng sản nào giành thắng lợi thông qua con đường nghị trường dù đã tranh thủ tối đa khả năng đó. Lịch sử đã chứng minh các Đảng Cộng sản giành chính quyền thắng lợi chỉ bằng bạo lực cách mạng và sau khi giành chính quyền thắng lợi sẽ thiết lập hệ thống chính trị, trong đó Đảng Cộng sản giữ vai trò duy nhất lãnh đạo, xây dựng chế độ mới. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng chế độ mới, không có một giai cấp nào, một lực lượng nào có thực lực, có tín nhiệm với nhân dân để có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản.

Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của tính hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; trước yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới và trước thực trạng yếu kém bất cập trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, xem công tác xây dựng Đảng không những là vấn để có tính quy luật, mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Song dưới anh sáng của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hơn 90 năm qua, chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc./.

Đoàn Quang Trung

#SQCT

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H.2007.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 - 01 - 2011).

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

5. Nguyễn Văn Ngọc, “Nhận diện và đấu tranh phê phán quan điểm “Muốn Việt Nam thực sự dân chủ và phát triển cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập””, in trong sách Kiên định, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2019.



[1] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1979, tr.352.

[2] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2005, tập 33. tr 33

[3] Hội đồng Lý luận Trung ương: Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 313

1 nhận xét:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới

    Trả lờiXóa