Tóm tắt: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất, tươi đẹp. Tuy nhiên, hiện nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta nhằm mục đích làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, có ý quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”[1].
Trong
hành trình ra đi tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc đã có duyên biết
đến chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, từ đó lựa chọn
cho dân tộc con đường cứu nước đúng đắn: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy, đau khổ! Đây
là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”[2]
và “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản”[3];
Cách mệnh “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy”[4];
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” và “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”[5].
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1990 - 2000), Đảng ta
tiếp tục khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, không chỉ giải
quyết vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động, nhằm
giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt Nam đòi hỏi. Tư tưởng của
Người được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng,
giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch
sử của Việt Nam; tiếp thu, tiếp biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân
loại: văn hóa phương Đông, phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Cơ
sở thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác -
Lênin mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc; đã nỗ lực xây dựng chế độ
dân chủ cộng hòa, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân… Cuộc đời, sự
nghiệp và tư tưởng của Người đã “để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển
của nhân loại...; là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã
cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội”[6].
Sự khẳng
định nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cương lĩnh năm 1991 không chỉ bảo đảm sự
thống nhất nhận thức trong toàn Đảng mà còn thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu
tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch đi ngược lại tư tưởng
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với
thời gian, Đảng đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị to lớn, toàn diện cống
hiến vô giá về lý luận, tư tưởng của Người được thực tiễn cách mạng Việt Nam và
thế giới trong thế kỷ XX chứng thực và khẳng định tại Đại hội IX rằng: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng
Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là
tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[7].
Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động… Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”[8].
Thực tiễn
những thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã chứng minh rằng: Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng
sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu
đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất
nước, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ
sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của
cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập vào khoảng
giữa những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
trong điều kiện lịch sử mới đã được V.I. Lênin bổ sung, phát triển thành chủ
nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại, mang bản chất khoa học và cách mạng, trở thành vũ khí tư
tưởng - lý luận của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, giải
phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, phát triển
toàn diện con người.
Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã tồn tại trên 170
năm và trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Mặc dù mô hình chủ nghĩa
xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ; mặc dù chủ nghĩa đế quốc cùng
những thế lực phản động, thù địch dùng nhiều thủ đoạn thâm độc chống phá, xuyên
tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tồn tại,
phát triển mà chưa có một học thuyết nào có thể thay thế được, nó có giá trị trường
tồn, sức sống bền vững. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là thế giới quan và phương
pháp luận khoa học của hàng triệu triệu người trên trái đất.
Để chống
phá chủ nghĩa Mác - Lênin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất
nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác
nhau.
Một
là,
có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan
điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng
lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại
đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã bị lỗi thời.
Đúng là
thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác -
Ăng-ghen - Lênin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất
là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những
biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy
nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý
chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Đó là
những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến
của sự phát triển xã hội loài người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng...
Đứng trên
quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lênin không
còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, song
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất khoa học và cách
mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn
thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài
người mà chủ nghĩa Mác - Lênin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường
tồn. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự
nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực
hiện được vai trò đó.
Hai
là,
có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của Việt
Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam
là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ chủ
nghĩa Mác - Lênin”.
Quan điểm
trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái
quát hóa của lý luận Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận khoa học nên
cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ quát,
vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải chú ý
đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều,
máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương
Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ
nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ
sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, không thể
cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông. Nhưng khi nói vậy,
Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó”; - tức ở phương Đông.
Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát triển
mà còn đúng cả với các nước kém phát triển. Vì, về mặt phương pháp luận như
C. Mác đã từng chỉ ra, trong cái phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở
trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.
Mặt khác,
nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam - một
nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành
công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân
Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.
Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi
mới.
Ba là, có quan điểm sai lầm đem đối lập chủ nghĩa
Mác với chủ nghĩa Lênin, đối lập C. Mác với V.I. Lênin để phủ nhận cả chủ nghĩa
Mác lẫn chủ nghĩa Lênin, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Họ viện dẫn
ra sự “đối lập” là C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, cách mạng vô sản phải nổ ra
đồng thời trong các nước tư bản, ít ra là trong các nước tư bản phát triển, còn
V.I.Lênin lại cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thành công ở
một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, còn lạc hậu, còn nhiều tàn tích của
chế độ nông nô như nước Nga.
Thành
công của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh tính đúng đắn của quan
điểm và phương pháp của Lênin. Sự đối lập giữa C. Mác với V.I. Lênin mà họ dựng
lên là giả tạo, bịa đặt. V.I. Lênin là người mác-xít, ông đã tự nhận mình là
học trò của Mác: Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin thống nhất với nhau về bản
chất. Chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách
mạng vô sản. C.Mác và V.I.Lênin sống ở hai thời đại khác nhau, C.Mác sống ở
thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh, còn đến V.I.Lênin
chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi đó cách mạng
vô sản, phong trào giải phóng dân tộc nổi lên, mỗi ông phải giải quyết những
nhiệm vụ do thời đại của mình đặt ra. V.I. Lênin không thể máy móc, giáo điều
ngồi chờ cho cách mạng vô sản nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển
được, mà phải chủ động nhận thức thời cơ, tình thế cách mạng và tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. V.I. Lênin trung thành với chủ nghĩa Mác
trong bản chất cách mạng, khoa học, biện chứng, chứ không phải trung thành một
cách máy móc bởi vì học thuyết của các ông không phải giáo điều mà là kim chỉ
nam cho hành động.
Bốn là, có quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác -
Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác - Lênin lẫn tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm
trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất,
là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông
qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu
thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu
nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân
tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và
làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, về
mặt lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác -
Lênin chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Đảng ta xác định
nền tảng tư tưởng của Đảng gồm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
rất đúng đắn, phù hợp, thể hiện mối quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa
hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.
Năm
là,
có quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là
do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học
thuyết”.
Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp. Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin của một số người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô./.
Vũ Văn Thắng
#SQCT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
3.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011.
4.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Hội thảo Quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Tham luận của đại biểu quốc tế), UNESCO và Ủy ban Khoa học xã hội
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
[1]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.289.
[2]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội, 2011. Tr.562.
[3]
Sđd, tr.30
[4]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.289.
[5]
Sđd, tr.289.
[6]
Hội thảo Quốc tế về Chủ tịch
Hồ Chí Minh (Tham luận của đại biểu quốc tế),
UNESCO và Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
Tr.9
[7]
Đảng Cộng sản
Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001. Tr.83 - 84.
[8] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011. Tr.88.
Bọn phản động thường dùng mọi thủ đoạn để xuyên tạc, bóp méo sự thật; nhằm mục đích chống phá Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy chúng ta phải đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động của chúng.
Trả lờiXóa